TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap III A)

Saturday, December 17, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III A tệp 1)

Tệp 1 – Tập III Blog A
(PHÂN ĐOẠN 1 TRUYỆN KÍ THỨ 9)

Tiếp theo các tập: từ tập I blog A đến tập II blog C :
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2c.blogspot.com/


TRẦN XUÂN AN

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)


Truyện – sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử
TẬP III
(TRỌN BỘ BỐN TẬP)

bản sơ thảo hoàn chỉnh, 02.2003
bản tự nhuận sắc, 02.2004


NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP. HCM.
2004
(trong bản đã xuất bản,
có gác lại một số đoạn chú thích)

THÁNG HAI
HAI KHÔNG KHÔNG BA
THÁNG GIÊNG QUÝ MÙI
NĂM THỨ BA CÔNG NGUYÊN HOÀ BÌNH



TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN

Tác giả,
TRẦN XUÂN AN
71B Phạm Văn Hai
(cửa hiệu Phan Huyên)
Phường 3, quận Tân Bình
Thành phố Hồ Chí Minh
ĐT.: [08] 8453955
& 0908 803 908.

Khởi viết từ 08 giờ kém 04 phút, ngày 18.12.2002
(15.11 Nhâm ngọ, năm thứ hai công nguyên Hoà Bình);
Tạm hoàn tất tập III vào lúc 15 giờ kém 05 phút,
ngày 05.01.2003 (03.12 Nh. ngọ HB.3);
Chú thích xong lúc 11 giờ 17 phút,
ngày 15.01.2003
(15.01 Q. mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình
[:HB.3]),
tại thành phố Hồ Chí Minh.


Xin tạ ơn ngọn bút,
biểu tượng của sự công chính và liêm khiết trí tuệ.
Xin yêu thương, trân trọng
và bảo vệtừng dòng chữ mồ hôi nước mắt
của chất xám và trái tim.

TXA.


Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ:
NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

Trần Xuân An,
nội hậu duệ thế hệ thứ năm.



PHẦN THỨ NĂM
(1881 – 1883)



BẮC KÌ, TƯỞNG CHỪNG LẶP LẠI

Truyện kí thứ chín

(phân đoạn 1)

1

Năm mới, Tự Đức thứ ba mươi bốn, Tân tị (1881), sau khi cây nêu ngày Tết Nguyên đán được hạ xuống, các công đường ở kinh đô lại bắt tay vào những công việc. Không như những lần khác, năm nay vua Tự Đức không cùng các đại thần thưởng trà, đọc thơ tân niên khai bút.
Cục Thuyền chính do thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường kiêm quản, Chu Đình Kế trực tiếp đảm trách, đang gặp khó khăn trong việc điều động thuyền buôn, thuyền đánh cá của dân ra Bắc Kì tải gạo, vì giá cả không thoả thuận và vì không được bảo hiểm trong khi mạn biển, đường sông phía bắc đầy rẫy nguy cơ hải tặc, thuỷ khấu, nhất là vào độ rét buốt, giêng hai cắn tay không ra máu này. Đây là thời điểm loại giặc cướp theo mùa (1) hoạt động mạnh nhất!
Cũng những ngày đầu xuân, tờ tâu xin thăng thưởng cho những chiến binh có công trạng không lớn của Bộ Binh do thượng thư Trần Tiễn Thành phụ trách bị nhà vua bực bội phê vào bằng bút son đỏ một dòng chữ khá nặng nề. Dòng chữ châu phê ấy như một nhận xét về chính vị đại quan họ Trần: “Xin nhảm, không phải thể thống” (2) . Những chiến công cỡ ấy, các quân thứ, quan tỉnh chỉ cần chiểu lệ tặng thưởng, cấp phát, thông tư lên Bộ, Bộ xét đúng là được, sao lại phải tâu lên vua! Trần Tiễn Thành tái mặt khi nhận lại bản tâu có dòng châu phê ấy. Ông chợt thấy mình đã lẩm cẩm mất rồi! Trần Tiễn Thành cố gắng giấu đi cảm giác đau xót đó.
Đang ngồi họp ở Viện Cơ mật – Thương bạc, mới đến mục thứ hai ấy, thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành chợt thấy rõ chính tuổi già của mình, kém một tuổi đã tròn bảy mươi! Ông nhận ra sự lẩm cẩm trong sự bẽ mặt nhưng vẫn giữ được một kinh nghiệm đối phó khôn ngoan vốn có, đó là vẻ phớt lờ như thể chẳng có gì xảy ra.
Hai thượng thư, sung đại thần Viện – Bạc khác, Nguyễn Chính (Chánh) và Phạm Thận Duật, không khỏi cau mày khi nhận thấy vẻ phớt lờ của Trần Tiễn Thành. Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại quá thừa hiểu thủ thuật đối phó bằng cách phớt lờ, không làm trầm trọng thêm những sơ suất mắc phải, của quan họ Trần. Ông mỉm cười. Vả lại, nhà vua cũng còn cả nể, chẳng giáng phạt gì trước sơ suất lần này của Trần Tiễn Thành.
Nghị trình vẫn được tiếp tục.
Quan tham biện của Viện – Bạc lại đọc bản dụ của vua Tự Đức: “Hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường kiêm nhiệm nhiều chức, bận nhiều việc, cho giả [:trả] bớt công việc Nha Thương bạc; cho quyền hữu tham tri Bộ Lại là Bùi Ân Niên sung làm quản lí Thương bạc sự vụ đại thần” (3) .
Thượng thư Trần Tiễn Thành vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh, cố kìm nén cảm giác dính vào một âm mưu đen tối, vì ông ta, chứ không ai khác, đã tác động lên nhà vua, theo sự vận động của khâm sứ De Champeaux, để truất Nguyễn Văn Tường khỏi chức ấy. Ông ta hắng giọng rồi nói:
- Dẫu chưa sung làm đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc, nhưng với chức năng mới được giao phó, trong các lần họp Viện – Bạc sắp tới, nếu có những vấn đề của Nha Thương bạc, nhất là những vụ việc cần thiết, quan quyền hữu tham tri Bộ Lại Bùi Ân Niên sẽ họp, trình bày và dự bàn với chúng ta. Có lẽ việc bàn giao Nha Thương bạc cho quan họ Bùi, thượng thư Nguyễn Văn Tường sẽ tiến hành ngay sau khi đã có chỉ dụ vừa nghe đọc. Trong năm cũ, trước khi nghỉ Tết, thượng thư Nguyễn Văn Tường cũng đã rõ việc trả bớt chức vụ này rồi.– Ông ta lại chuyển rất nhanh sang đề mục khác –. Chúng ta lại bàn về kết quả thử nghiệm chất lượng các quặng mỏ.
Quan tham biện Viện – Bạc trình bày các số liệu và kết quả thử nghiệm, khâm phái lãnh sự Nguyễn Thành Ý từ Gia Định tâu về. Trước đây ít lâu, Viện – Bạc đã nhờ tướng suý Pháp tại Gia Định chỉ thị cho các kĩ sư của y giúp ta về việc thử nghiệm chất lượng các mẫu quặng mỏ, vàng, bạc, đồng và than, nhưng đến lúc này, theo lời tâu về từ Gia Định ấy, chỉ có than là dùng được nhưng nhiệt lượng kém, còn lại đều là sỏi đá! Thật ra, tập tâu kết quả thử nghiệm Viện – Bạc đã biết trước và đã lược ghi vào phiến tâu, trình lên vua. Lúc này, bốn đại thần Viện – Bạc nghe rất rõ và đọc tận mắt dòng châu phê: “Mọi việc mượn nhờ người, tóm lại như giấc mơ mộng, không có kì nào được nên việc. Lo toan việc nước sao vụng đến thế!” (4) . Nhà vua vẫn thiết tha ban sắc dụ cho các quan có trách nhiệm trù tính việc thử nghiệm, khai thác mỏ. Nhưng rõ là nhà vua cũng nhận ra phải tự lực, tự cường là chính. “Hoà” ước chỉ là những dòng chữ lừa mị về một thứ gọi là “hữu nghị” đồng nghĩa với xâm lăng!
- Trong một dịp đức vua gặp tổng đốc Vũ Trọng Bình, tôi đã nói lại một lần nữa về cái gọi là “hữu nghị” giữa nước ta và Pháp. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường trầm tĩnh nói –. Ta đã thừa biết chúng cả trăm năm về trước, nhất là hai mươi mấy năm qua, khi chúng đánh chiếm Đà Nẵng, sau đó vào đánh chiếm Nam Kì… Nhưng đến lúc này, vẫn còn muốn thử lại cái gọi là “lòng tốt” của cái gọi là “hữu nghị”… Và đáp số đã quá rõ. Chúng tưởng như người Đại Nam ta chưa từng khai mỏ!… Lòng dạ, tâm địa của bọn Pháp thật quá rõ qua phép thử này. Đúng là trái tim chúng chỉ toàn là sỏi đá và chỉ một có một chút than kém nhiệt lượng. Khốn nỗi, chúng lại ra sức cấm vận ta, ngăn cản ta trong các mối bang giao với các nước. Trong vận hội thế giới này, các nước không học hỏi ở nhau thì làm sao tiến bộ được!
Đó là một vấn đề không phải là mới lần đầu đề cập đến. Việc tìm cách thoát ra khỏi sự bao vây ngoại giao, cấm vận của bọn Pháp cũng đã quá cũ. Biện pháp là phải làm gì trước tình huống ấy một cách có hiệu quả, và làm thế nào để đạt hiệu quả, thật không đơn giản.
Tứ trụ triều đình, bốn đại quan tham mưu, cố vấn cao nhất của vua Tự Đức thật sự đã nhiều lần trăn đi trở lại vấn đề này, tuy mức độ trăn trở, nhức nhối ở mỗi người mỗi khác.
- Vừa rồi, hàn lâm viện tu soạn Phan Liêm lại “mật tâu các việc mở ra buôn bán và góp vốn đi buôn, khai mỏ, học tập (tiếng nói và máy móc)” (5) . Đây là vấn đề nhiều năm trước ta đã từng bàn, nhất là sau khi nhà vua đọc báo Hương Cảng tân văn về mục “chống người dám khinh” , hồi tháng mười nguyệt lịch năm thứ ba mươi mốt (1878) (6). – Quan quản lí sự vụ Bộ Binh Trần Tiễn Thành nói –.
- Đức vua vẫn bảo “việc ngày nay cũng nên làm như thế. Nhưng nói thì dễ, làm thì khó. Nay nên làm thế nào cho chóng có hiệu quả, khỏi lỡ về sau” (5); “bậc lão thành lo toan việc nước, chưa từng không kĩ lưỡng, nhưng cũng mưu tính thế nào để có thể mỗi ngày mỗi tiến. Nếu không tiến thì phải lùi mà thôi. Bàn suông có ích gì!” (5) . Tất nhiên phải ra sức thúc đẩy việc canh tân. Những khó khăn chúng ta đã bàn từ năm Tự Đức ba mươi mốt (1878). Vấn đề vượt lên khó khăn lưu cữu ấy không phải một sớm một chiều. Bước đột phá tương đối dễ vượt lên là học tập ngoại ngữ và cơ khí, kế đến là khai mỏ. Việc doanh thương phải tập dượt. Và khó nhất là vốn!
- Có thể trước mắt, ngoài việc vẫn tiếp tục cử người đi học ngoại ngữ, cơ khí, nên tâu xin cấp ấn “khâm phái quan phòng” cho Phan Liêm ra Quảng Yên khảo sát thực địa mỏ than để tiến hành khai thác mỏ (7).
Cuối buổi họp đầu năm của Viện – Bạc lại là vấn đề tổ chức (8). Thự thượng thư Bộ Hình Phạm Thận Duật, thự thượng thư Bộ Lễ Đỗ Đệ đều được thực thụ. Tả tham tri Hồ Trọng Đĩnh thăng thự thượng thư Bộ Công. Và cũng như tinh thần bàn thảo, tâu lên nhà vua trong tháng cuối năm cũ, mới đây, nay nhà vua đã ra dụ cho thượng thư Bộ Binh Trần Tiễn Thành thôi giữ chức ấy, mà chỉ trông coi công việc Bộ Binh. Bộ Binh do một vị quan khác, làm thự thượng thư, đảm trách trực tiếp. Như thế, từ đây, Trần Tiễn Thành chỉ là một đại thần thuần tuý làm cố vấn và chỉ cố vấn mà thôi. Ông vẫn là đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc, một cơ quan xưa nay vẫn có một chức năng duy nhất là cố vấn, tham mưu cho nhà vua. Ông ta cũng chỉ cố vấn thêm cho Bộ Binh, khi tả tham tri Bộ Binh Lê Hữu Tá (người Bắc Kì) (9) đã thăng thự thượng thư Bộ ấy (8).
Trần Tiễn Thành vẫn biết rằng ông ta đang còn giữ vai trò rất quyết định. Cho dù biết rõ mình đã có khi lẩm cẩm, quanh mình đã lâu rồi có lời đàm tiếu, “con ngựa hết thời vẫn còn luyến tiếc hạt đậu trong chuồng” , ngáng trở những người hiền trẻ tuổi hơn (10), nhưng ông không chịu rời khỏi triều đình. Vua Tự Đức, lạ thay, cũng không muốn ông rời khỏi triều như thế và không nỡ cho ông “về vườn” như thế!
Buổi họp đầu năm Tân tị (1881) của Viện Cơ mật – Thương bạc vẫn chưa tìm ra những giải pháp nào cho tình thế Đất nước thật sự như căn bệnh đã đến lúc trầm kha. Căn bệnh trầm kha, chưa tìm ra liệu pháp!
Thật ra, sau phép thử và đi đến kết luận cuối cùng, Viện – Bạc đã quyết tâm hơn trong việc hướng về sự liên minh với Trung Hoa.

2

Từ năm Tự Đức thứ hai mươi bảy, Giáp tuất (1974), sứ bộ Phan Sĩ Thục đã sang Trung Hoa để tiếp tục củng cố mối bang giao. Điều khoản thứ II và thứ III của “hoà” ước Giáp tuất vẫn được dẫn ra trước sự bực tức của Phủ suý Pháp tại Gia Định và những tên khâm sứ tại Huế, lãnh sự tại Hải Phòng, Hà Nội.
Khoản thứ II: Vua nước Đại Pháp biết rõ vua nước Đại Nam là giữ quyền tự chủ, không phải theo phục nước nào… […] …
Khoản thứ III: … […] … Nếu từ trước có giao thiệp đi lại thông sứ với nước ngoài nào, nay nên theo như cũ, không nên đổi khác… […] … (11)
.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường đã đề xuất việc lập ra Cục Thuyền chính để giải quyết vấn đề vận tải, tuần tiễu theo cách của Cục Chiêu thương nhà Thanh, trước hết nhằm chủ động công việc lưu thông, phân phối, điều hoà lương thực cũng như những mặt hàng nhu yếu khác, đặc biệt là quân nhu, của Bộ Hộ. Công việc không mới, chỉ là tiếp tục triển khai Nha Tào chính vốn có trước đây, nhưng với một quy mô lớn hơn. Trong công việc này, ông cố gắng liên hệ với Cục Chiêu thương nhà Thanh, vừa hợp đồng vận tải đường biển, đường sông, vừa mở rộng liên minh với nhà Thanh về quân sự, chính trị. Với dạng thức xem ra có vẻ thuần kinh tế (économy) như thế, mối liên minh quân sự, chính trị ấy sẽ qua mắt được bọn Pháp, viễn chinh và cố đạo.
Ngay trong tháng giêng năm Tân tị (1881) vừa qua, quan Thuyền chính Nguyễn Văn Tường đã cùng các vị quan trực tiếp đảm trách khác, lo việc nâng cấp các toà nhà, kho tàng ở Thuận An, vốn đã khởi công xây dựng từ tháng chạp năm ngoái, lo việc khảo sát độ sâu ở cửa biển cuối dòng sông Hương ấy. Đó là một cửa biển có một dải đất cát chạy dài như thành luỹ, che chắn như bình phong trước cửa sông Hương. Dải đất cát ấy lại được cắt ngang làm nên Thai Dương thượng, Thai Dương hạ. Vết cắt tự nhiên ấy là cửa biển Thuận An. Giữa bờ đất liền với Thai Dương là một vùng đầm phá mênh mông, có tên gọi là Tam Giang. Quan Thuyền chính nhận thấy cửa biển dần dần đang bị bồi nông (12). Độ sâu của sông Hương gần cửa biển Thuận An chỉ sáu (6) thước ta, bằng hai mét tư Tây (2m4). Do đó, ông đã tâu xin để Bộ Công trù tính việc mua thuyền nhỏ cho tiện san tải (12).
Khởi đầu việc mở rộng quy mô, đúng với kế hoạch vạch ra và xứng với tên gọi, Cục Thuyền chính vẫn phải vận động thêm thuyền tư nhân của dân. Trước đây, khi kiêm quản Nha Thương bạc, để đối phó với nạn tiền giả (tiền sềnh dị dạng), ông đã chủ trương thu thuế bằng bạc nén, bạc đĩnh, bạc đồng, nên cũng lắm người ác ý hoặc đùa ông là thượng thư Bộ Hộ không thương tiền (thương xót tiền thật bị biến thành tiền giả), chỉ lo thương bạc (thương kim loại quý màu trắng được xác định là ngân bản vị) (13)! Tất nhiên đó chỉ là đùa vui bằng cách chơi chữ. Lần này, ông không muốn ba chữ “quan Thuyền chính” lại bị chơi chữ nữa, dẫu là đùa với thiện ý (với nghĩa tàu thuyền chính đáng). Không muốn bị mang tiếng là cưỡng chế giá cả đối với tàu thuyền của dân, cũng như ép buộc chủ thuyền trong khi không bảo hiểm cho họ trước bão tố, sóng gió, nhất là nạn hải tặc, thuỷ khấu, thượng thư Nguyễn Văn Tường đã tâu xin để đình thần nghị bàn, lấy ý kiến của tập thể làm nghị quyết (14).
“Định lại giá cấp và cách thưởng cho thuyền vận tải:
Khi ấy, sức [:truyền lệnh] làm thuyền vận tải, dân phần nhiều kêu ca và tránh lẩn. Vua đem việc ấy hỏi, quan Thuyền chính là Nguyễn Văn Tường thưa rằng: “Vận tải là việc lớn, mà sự thế ngày càng khó. Thần đã hết lòng lo nghĩ, cũng không xếp đặt được. Nhưng việc ấy quan hệ đến sự cần dùng cho Nhà nước, cho việc quân. Xin sắc [dụ] cho đình thần bàn, để nhờ sự sáng suốt của mọi người”.
Đình thần cho là: “Giá cấp cho thuyền vận tải [của dân] đã không bằng giá cấp cho thuyền buôn nước Thanh, mà lẽ [lỡ?] ra gặp sóng gió phải chia nhau bồi lại, lụy đến vợ con; [vì thế] nên người đều tránh đi, mà ngạch thuyền vì thế giảm ít. Xin cho các tỉnh có ngạch [tàu thuyền] vận tải, hết lòng hiểu bảo, khuyên nhủ, [để dân] lần lượt đóng thuyền, cốt đủ để tải. Giá cấp thì chiểu theo lệ thuyền buôn nước Thanh. Lại phái một chiếc tày thuỷ [bọc đồng, chạy bằng hơi nước] đi lại hộ vệ giúp. [Nếu] không may bị thiệt hại, thực có tình trạng rõ ràng là bị sóng gió thì gia ân miễn cho tội đền. Trong đó người nào có thể xuất tiền của tự đóng một chiếc thuyền đi tải, xin tạm cấp cho [hàm] bách hộ; đủ lượt chở (ba [03] năm sáu [06] lượt), được thưởng thụ tòng cửu phẩm bách hộ. Như thế thì dân mới thích đi hưởng ứng, mà ngạch thuyền sẽ được thưởng [nên đầy] đủ. Còn như thuyền đi phục dịch, [dân] đã từng kêu xin chiểu bản phận [:hải phận tại nơi cư trú] đi tải, không muốn chung vào ngạch thuyền vận tải [của triều đình], xin theo ý muốn [của dân], không cần bắt ép làm gì”.
Vua nghe theo” (14)
.
Tháng ba Nam lịch (1881), vẫn với chủ trương liên minh cùng nhà Thanh nhưng vẫn tự lực, tự cường để tự chủ, quan Thuyền chính Nguyễn Văn Tường phát huy thế mạnh về ngoại giao với quan chức nhà Thanh, vốn đã tôi luyện trong năm năm tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc, ông cùng các quan Bộ Lễ đã đón tiếp Đường Đình Canh, phái viên Trung Hoa. Đường Đình Canh là một viên quan nhà Thanh, thuộc tỉnh Quảng Đông, nay đang đến nước ta, với danh nghĩa là người của Cục Chiêu thương.
“Quan Cục Chiêu thương nước Thanh là Đường Đình Canh đến kinh [đô Huế], tâu làm giúp việc vận tải” (15)
Buổi đón tiếp diễn ra tại công đường Bộ Lễ với yến tiệc và phẩm vật do nhà vua ban. Trong bữa tiệc, sau một vài lần nâng cốc chúc tụng, Đường Đình Canh nói:
- “Nước Thanh năm trước vì phương tiện vận tải hiếm, [lắm người] lại cho là người đi buôn vận tải hàng hoá, [rốt cục] lợi về thuyền của người Tây [Âu Mỹ]. [Triều Thanh] bèn đặt ra Cục Chiêu thương, bỏ bạc công ra một trăm vạn (1.000.000) đồng [Mễ Tây Cơ, Mexico] và cho quan dân xuất tiền góp vốn đóng tàu thuỷ để chở lương [thực] công, và đáp hàng hoá tư. Nhân đó, để diễn tập đường biển” (15) .
- Thế thì các quan quý quốc tính lãi suất thế nào? – Quan Thuyền chính Nguyễn Văn Tường hỏi –.
- Vâng, tôi sẽ nói rõ, và nói rõ chủ đích nữa. – Đường Đình Canh hạ thấp giọng, như muốn giữ bí mật, mặc dù số người dự yến hôm ấy đều là quan đại thần Viện – Bạc và Bộ Lễ –. Vâng, thế này, “hàng năm tính lãi, chiểu số tiền gốc, chia lãi đều nhau. Tuy nói rõ là làm việc tải gạo công, thực ra là ngầm chia quyền lợi của người Tây [Âu Mỹ]” (15). Chẳng lẽ, thưa quý đại thần, người Thanh, người Nam ta cứ mãi chịu người Tây [Âu Mỹ] lấn lướt, chèn ép mãi à? “Đến nay, thuyền ở Cục ấy ngày càng nhiều, tải việc công đã thừa, cho nên chia đi các nước tải tư [tải thuê] lấy lợi” (15)
“[Đường] Đình Canh, người tỉnh Quảng Đông, là quan tam phẩm, dự làm việc ở Cục ấy. Lần này, [ông ta] được khâm sai thự lí thông thương đại thần là Lý Hồng Chương (hiện là tổng đốc Trực Lệ, đóng ở Thiên Tân) phái uỷ đi [sang nước ta], và [đồng thời] mang thư [của quan họ Lý] đến cửa tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh. [Ông ta] từ Hương Cảng đến Hải Dương, đáp thuyền buôn đi suốt đến cửa Thuận An. Vua sai bọn Nguyễn Văn Thuý, Trần Thúc Nhẫn đón tiếp” (15) .
Lúc này hai vị quan Bộ Lễ ấy tiếp đãi ông ta bằng yến tiệc, cùng các “quan Viện Cơ mật và Thương bạc bàn định chương trình [vận tải]”. “[Đường] Đình Canh [cũng đã vừa] nói rõ Cục Chiêu thương để [mong được] tải giúp, và tỏ bày cái ý muốn cùng nước ta cùng mưu giàu mạnh” (15) .
Sau một hồi cả bàn tiệc cùng bàn thảo, mặc cả, đã đi đến nhất trí. Quan Thuyền chính Nguyễn Văn Tường nói thật chậm rãi, cố ý để mọi người đều nghe:
- Thế này, “đại khái mỗi năm vận tải bốn mươi hai vạn [420.000]. Tháng giêng bắt đầu tải, đến tháng bảy thì xong. [Lộ trình] từ Hải Phòng đến Thuận An, mỗi trăm (100) phương giá cước là một trăm bốn mươi (140) quan. Thiếu hay mất đều phải đền. Nhưng ở Hải Phòng và cửa Thuận, Cục ấy đều đặt kho, phái người ở đấy làm việc” (15) . Hợp đồng, nói lại vắn tắt là như thế. Hai bên đã nhất trí. Nay xin tuân chỉ “viết thư trả lời, [theo lời vua] bảo [nhờ quan họ Đường] mang về trình viên tổng đốc Quảng Đông, xin làm chủ [nhiệm, chịu trách nhiệm chính] giúp cho” (15) .
- Vâng, nội dung chỉ có thế. – Đường Đình Canh đáp –.
- Vậy xin cùng nâng cốc chúc mừng tình bang giao của hai nước và hi vọng hợp đồng liên minh sẽ thành công.
Tất cả mọi người cùng cạn cốc rượu trên tay của mình.
“Khi về, [sau khi nhà vua] đã ban yến, lại đem bạc hai trăm (200) lạng; quế tốt Thanh, Nghệ, Quảng, mỗi thứ ba (03) phiến; trầm hương, kì nam, mỗi thứ mười (10) lạng để tặng. [Đường] Đình Canh chỉ nhận các thứ quế, trầm hương, kì nam, còn bạc thì cố từ chối” (15) .
Dẫu vậy, cố nhiên nhà vua, triều đình, quan Thuyền chính Nguyễn Văn Tường vẫn xem việc hợp đồng vận tải thực sự không phải là kế lâu dài, vận tải là việc ta phải làm lấy (16), và cái chính là liên minh quân sự, chính trị chứ không phải vận tải.
“Hiện nay vời thuyền nước Thanh, hình như là kế trước mắt, không phải là cách lâu dài…” (16) .
Thượng thư Bộ Hộ kiêm quản Cục Thuyền chính cảm thấy cuộc gặp bàn vừa rồi với Đường Đình Canh chính là bước đầu xác lập rõ hơn quan hệ với nước Thanh để tạo thế ngoại giao đối trọng. Ông mỉm cười, hiểu rõ ông vẫn đang trực tiếp tiếp tục làm công việc ngoại giao, nhưng hướng mạnh hơn về phía Trung Hoa, so với mấy năm qua.

3

Tình hình ở Bắc Kì từ mấy năm rồi đang căng thẳng dần. Đến lúc này, ngoài nhiệm vụ ngoại giao mở về phía Trung Hoa mạnh hơn, rõ hơn, thượng thư Bộ Hộ kiêm sung đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường còn phải giải trình, đề xuất, được chuẩn y, và chỉ đạo giải quyết, thực hiện các công việc có tính chất sự vụ thuộc Bộ Hộ, đồng thời vẫn tham mưu, cố vấn giải quyết các vấn đề thuộc các bộ khác.
Bọn Pháp vẫn không phải không ranh ma, khi cho các tên y bác sĩ lấy danh nghĩa là du khảo bác vật, đi từ Nam đến Bắc, thực ra là đi dụ dỗ dân thượng du từ Biên Hoà đến Bắc Kì. “Hắn đi không phải học bác học. [Hắn] cũng nghi ta đi kinh lí miền núi. Và [hắn] đi tìm đường dụ dỗ dân…” (17) . Do đó, tuân chỉ nhà vua, Viện – Bạc thông tư cho các Nha Sơn Phòng, Doanh điền, Điển nông phải canh phòng, xem xét cẩn mật hành tung của bọn y bác sĩ thực dân này. Mấy tháng sau, Phan Trung ở Bình Thuận lại tâu ra, xác nhận chính xác là Pháp dụ ngầm các người Thượng (18)!
Khâm sai của Chính phủ Pháp lại đến Hải Dương thương thuyết về việc buôn bán! Thương mại “hữu nghị” gì nữa, trong khi mục đích chính của tập đoàn lãnh đạo chóp bu ở nước Pháp, vốn là những tên đại biểu của giới tư sản tài chính Pháp, gồm tư sản ngân hàng và tư sản công nghệ, doanh thương, đang sôi sục tham vọng xâm chiếm (thuộc địa hoá hoặc bán thuộc địa hoá), để khai thác tài nguyên khoáng sản vốn rất phong phú ở Bắc Kì, để bóc lột sức lao động rẻ mạt, không công ở nước ta, và để có thị trường bán ra các hàng hoá sản xuất dư thừa với lợi nhuận cao, mua về nông lâm sản giá cả thấp. Tên khâm sai của Chính phủ Pháp Lô Cờ Lơ (?)(19) thực chất đang khảo sát thực địa Bắc Kì với mưu toan quân sự.
Đầu tháng hai Tân tị (1881) là thế. Đầu tháng ba, một tên trong nhóm Lô Cờ Lơ là Cơ Ki Loặt (?) (20) lại rời Hải Dương cùng các tỉnh khác ở Bắc Kì như Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, rồi y lại đến hai sở Thương chính, Hải phòng Bình Định để kiểm xét thuế lệ (20)! Chúng coi như nước ta là chốn không ai có thể ngăn cản gót chân thực dân của chúng!
Trong khi đó, thuyền buôn nước Thanh lại tổ chức mua đứt nhân công, vốn là những người nghèo khổ, cùng quẫn ở Nghệ An, đến bảy mươi hai người! Tàu tuần tiễu của Pháp bắt được, giải giao cho khâm phái lãnh sự Nguyễn Thành Ý ở Gia Định (21). Tấn thủ cửa Quyền tỉnh Nghệ Bùi Đức Tu phải bị giáng bốn cấp, đổi đi nơi khác. Các quan tỉnh, huyện ở Nghệ cũng bị giáng cấp, cho lưu nhiệm (21).
Đất nước đang bị kẹt giữa hai thế lực một cách đau đớn. Trong hai thế lực đó, có vai trò rất rõ của giới doanh thương người Pháp, người Hoa nước Thanh!
Tuy vậy, không cách nào khác là vẫn vừa chống đỡ vừa tranh thủ ngoại giao với cả Pháp lẫn Thanh để tạo nên thế đối trọng, giảm bớt lực ép từ hai phía. Triều đình vẫn cử Trần Hữu Viết vào Gia Định học tập kĩ thuật và phương pháp sử dụng súng Tây (22), vẫn tìm cách liên hệ cùng Đường Đình Canh thuộc Cục Chiêu thương Trung Hoa. Triều đình, nhất là Bộ Binh, Bộ Công, cố sức luyện quân theo chỉ dụ: “Nay vận hội thế giới, tất phải quân khoẻ, mới có thể làm cho phương xa sợ phục” (23) . Không cách nào khác, từ rất lâu, thượng thư Nguyễn Văn Tường đã nhận thức rất rõ một chân lí đơn giản là vậy: phải canh tân kĩ nghệ, thúc đẩy thương mại và tăng cường quân lực.
Ngoài việc phải đối phó với cả Tây [Âu Mỹ] lẫn Tàu, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường còn phải cùng các quan thuộc bộ lo việc tăng nguồn thu cho ngân sách ở việc khai thác tài nguyên khoáng sản, chứ không chỉ trông vào nguồn thuế. Ba mỏ sắt ở Bắc Ninh đang được triều đình cho lãnh trưng và trực tiếp quản lí khai thác, lại cần hạ mức thuế ở ba mỏ ấy để kích thích việc khai thác (24). Ngoài ra, rất cần phải giải quyết vấn đề trì đọng trong việc xét xử tranh chấp ruộng. Vì tranh chấp, chậm xét xử, nên ruộng bị bỏ hoang mùa này sang vụ khác, tạo nên sự lãng phí lớn (25). Để tăng nguồn thu cho ngân sách, cũng là để tạo công bằng trong sản xuất, phải kiểm xét số ruộng ẩn lậu (không khai vào sổ điền) (26).
Thượng thư Nguyễn Văn Tường cũng đã tâu xin điều chuyển Bùi Ân Niên về Bộ Hộ của mình (27), cũng với hàm thự hữu tham tri, vẫn kiêm quản đại thần Nha Thương bạc, để thuận lợi cho quan họ Bùi trong công tác. Nguyễn Trọng Hợp thế chân ở Bộ Lại, thăng tả tham tri bộ ấy. Lê Tiến Thông, vốn là tuần phủ Hải – Yên, sau khi được đình thần xử án, vụ án Phạm Phú Thứ và ông ấy, nay đã được về làm biện lí Bộ Hộ (28) cùng thượng thư Nguyễn Văn Tường.
Cũng như Lê Tiến Thông, sau cuộc nghị xử, Phạm Phú Thứ bị giáng xuống tả tham tri, làm ở Bộ Binh (28).
Đó là một vụ án nhà vua vẫn quy kết Phạm Phú Thứ hoang báo về âm mưu Tây dương và thiên vị với khách thương người Hoa, với người bà con bên ngoại là Lương Văn Tiến (chở gạo về Quảng Nam cho người làng, người họ) (28). Tuy nhiên, không chỉ xét công lao, nhà vua đến lúc này cũng đã tin chắc Phạm Phú Thứ không hoang báo chút nào về thực trạng bọn Pháp và các nước Âu Mỹ khác đang mưu toan xâm lược Bắc Kì, đòi sửa đổi “hoà” ước, thương ước Giáp tuất 1874 mà chúng cho rằng còn bất lợi cho chúng. Do đó, mức án đã giảm nhẹ rất nhiều.
Dẫu sao, Phạm Phú Thứ và Lê Tiến Thông đều đã được làm việc tại triều.
Cuối tháng ba, Tôn Thất Thuyết về kinh đô Huế. Lẽ ra, ngay từ năm Tự Đức thứ ba mươi hai (1879), hiệp đốc Tôn Thất Thuyết đã phải về kinh lo việc chấn chỉnh quân binh, nhưng ông bị bệnh, phải chữa trị tại quê vợ ở Thanh Hoá, và cũng vì vua cho rằng ông vẫn còn tính khí nóng nảy. Đến lúc này, tình hình đã thêm căng thẳng ở Bắc Kì trước âm mưu xâm lược lần thứ hai của Pháp, ông đã về kinh đô. Nhà vua vốn rất ưu ái và quý trọng tài năng cầm quân đánh trận của Tôn Thất Thuyết, rất tâm đắc với nhận xét trước đây (1873) của Nguyễn Văn Tường về ông: “Tôn Thất Thuyết, theo việc quân lâu ngày, am tường chinh chiến, binh lính tướng tá đều sợ tánh nghiêm, nên cũng gọi là tay năng nổ. Nguyễn Đình Thi, gặp việc, nhận rõ chân tướng, chẳng nề gian hiểm, từng ở lâu biên địa, tình thế khá quen, nhưng việc dùng binh không nghiêm trọng bằng Tôn Thất Thuyết” (29) . Tuy nhiên, không chỉ với Tôn Thất Thuyết, mà với cả các đại thần khác, mặc dù trong thâm tâm và ở những lúc khác vốn rất quý trọng, khen ngợi, lúc này nhà vua cũng vẫn với giọng điệu hoàng đế, lại theo kiểu “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho ngào”! Mới xem ra, thấy chừng như vua Tự Đức bất nhất, dễ cáu gắt bất chừng, nhưng thật ra, khen ngợi hết lời hay quở mắng thậm tệ cũng đều xuất phát từ lòng ưu ái; có điều, nhà vua không muốn người được ưu ái lại sinh ra kiêu căng, tự mãn.
“Hiệp đốc trước là Tôn Thất Thuyết từ Thanh Hoá về kinh (30):
Năm thứ ba mươi hai, [ông] xin về tỉnh Thanh Hoá chữa bệnh. Đến nay, về kinh, xin vào chiêu bái. Vua bảo rằng: “Còn thác bệnh để tránh, chưa chịu cảm ngộ, không cho”. [Tôn Thất] Thuyết sợ, liền trần tình xin tha tội. Vua bảo rằng: “Ngươi vốn có tính kiêu căng, hẹp hòi, hay nghi ngờ người, đến nỗi chân hoả trong tim bốc lên, mê hoặc lệch về ngã khác [:không trung chính, mà thiên lệch về ngã này hay ngã nọ, theo chủ quan], tính khí bất thường. Hiện nay bệnh ngươi ra sao? Xin nghỉ bao lâu cho vừa? Lại tâu lên!”. [Tôn Thất] Thuyết dâng sớ xin tâu rằng: “Tôi lâu nay bị ốm yếu, rút lại không làm được việc gì, sợ phụ lòng nhà vua gây dựng cho. Xin ban ơn cho nghỉ một năm nữa, chữa khỏi, lập tức xin làm việc ở kinh, để giãi tỏ lòng quyến luyến mong mỏi”. Vua bảo rằng: “Ngươi phải điều dưỡng nhiều và học hỏi thêm, mới có thể nên người được” (30)
.
Lúc gặp lại thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường, kể từ những năm tiễu phỉ trước khi kí kết “hoà” ước Giáp tuất 1874 đến nay, Tôn Thất Thuyết rất áy náy nhớ lại lời dụ của vua Tự Đức năm ngoái. Bấy giờ, “vua dụ rằng: “Thuyết ít học, không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể. Lời đồn ở kinh đô cũng không có căn cứ. Người xưa không thể dẹp được lời gièm, cho nên nói: “Cứu rét không gì bằng mặc hai lần áo cừu, dẹp lời gièm không gì bằng tự phải tu tỉnh”” (31) .
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường vẫn thân mật nói với nguyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết:
- Nhắc chi chuyện cũ! Vả lại, tâu hặc là trách nhiệm, nghĩa vụ và là một quyền đã được thể chế hoá. Hãy tưởng tượng các quan không ai tâu hặc ai, thì bản triều và nhân dân sẽ đi đến đâu. Quan rất thối nát, dân rất khốn khổ. Cho nên, tâu hặc nhau là rất tốt. Mọi lời tâu hặc đều được phân tích, điều tra, xác minh, chứ đâu phải ai cũng sàm tấu (tâu bậy, xúc xiểm) để hại người được. Tôi chẳng phàn nàn chi về việc được quan nguyên hiệp đốc tâu hặc về nạn tiền giả (tiền sềnh) cả. Việc ấy đã được làm sáng rõ. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại mỉm cười nói –. Còn lời quở trách của nhà vua vừa rồi, hơi quá nặng vì nhà vua vốn xử sự với quan nguyên hiệp đốc theo cách người thân thích ruột rà trong nhà, trong dòng họ nhà vua đó thôi.
- Vâng, tôi cảm ơn quan thượng thư Bộ Hộ. – Nguyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết xúc động nói –. Qua đó, mới hiểu tấm lòng của quan thượng thư hơn. Ở đời, có khi đổ máu rồi mới nhận ra tri kỉ, tri âm. Từ đây, xin mạo muội được tự xưng là bạn vong niên với quan thượng thư.
Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường cười lớn một cách niềm nở:
- “Trường đồ tri mã lực” (đường dài mới biết ngựa hay) . Ngạn ngữ viết như thế. Tục ngữ cũng thường nhắc nhở mọi người: “Đi lâu mới biết đường dài, ở lâu mới thấu lòng người ra sao” . Mong rằng chúng ta sẽ luôn có dịp làm việc cùng nhau tại triều. Tôi lớn hơn quan hiệp đốc đến mười lăm tuổi, vẫn là đồng sự và bạn vong niên với quan hiệp đốc. – Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường lại mỉm cười –. Việc tâu hặc là một cơ chế từ lâu trở thành nền nếp tốt, có hiệu quả, với mục đích giúp các quan kiểm tra, giám sát lẫn nhau, để giữ nhân cách, đạo đức cho nhau. Nhờ đó, dân đỡ khổ vì các thói tệ của quan, và đồng thời để tăng cao hiệu suất trong việc quan. Cũng nhờ vậy, dân dư ăn thừa mặc bởi quan không biếng lười, trễ nãi. Quan hiệp đốc cũng như tôi đã quá quán triệt cơ chế và mục đích của việc tâu hặc, là như thế. Xin quan hiệp đốc đừng áy náy. Chỉ mong rằng chúng ta sẽ cẩn trọng, cân nhắc, đắn đo hơn trong việc tâu hặc.
Họ nhìn nhau, cùng mỉm cười thân thiện như những năm cùng tiễu phỉ ở biên giới phía bắc trước đây.
- Hiện nay, quốc nạn tiền giả (tiền sềnh, dị dạng) vẫn còn gay go lắm.
- Vâng, tôi biết. Đúng là một quốc nạn.
- Mong rằng quan nguyên hiệp đốc một khi đã về kinh, sẽ giúp cho Bộ Hộ cũng như cho cả triều đình những kế sách đối phó, may ra…
- Thật lòng là không dám. Quốc nạn này không đơn giản chút nào. Suốt mấy tháng nay tôi để tâm tìm hiểu, và thấy trước đây, bản thân tôi quá sức hồ đồ, nông cạn, nói càn…
- Tôi cũng nói thật lòng. Thực trạng vẫn còn đó. Có thể tìm hiểu, điều tra, tìm thấy nguyên nhân và hậu quả đang diễn tiến. Ấy là tôi cầu mong sự hiến kế, chứ không nhằm nhắc lại chuyện tâu hặc cũ. Tâu hặc là tốt. Nhà vua cũng thường được các quan dâng sớ xin đức vua tự trách.
- Vâng, phê bình và tự phê bình là một cơ chế và nền nếp rất tốt. Và phải quở trách, tâu hặc lại sự tâu hặc như tôi đã tâu hặc không đúng và đã bị nhà vua quở trách, bị các quan tâu hặc lại cho rõ sự thật.
Hai người đã thật sự thấu lòng nhau.
Một quý của năm Tân tị (1881) đã trôi qua.

4

Việc viên hành nhân linh mục Nguyễn Hoằng bị cách chức mọi người đều biết lí do: chỉ vì y mật báo cho Viện – Bạc theo ý kiến hăm doạ và sự thúc đẩy của tên khâm sứ De Champeaux. De Champeaux “nhiều lần qua Nha Thương bạc xin vào chầu [vua] tâu việc. Quan Viện Cơ mật và Thương bạc bàn là cho vào tận nơi tâu việc không phải là thể lệ, chỉ cho vào triều yết thôi. Viên sứ ấy [De Champeaux] lại nói, chỉ được vào triều yết thì xin thôi. [Nguyễn] Hoằng nhân đó bẩm kín với quan Viện Cơ mật và Thương bạc rằng chủ suý nước ấy [nước Pháp] đưa thư đến nói ta không cho viên sứ ấy vào chầu [trực tiếp] tâu việc, tất đem tàu binh đến ức hiếp. Quan Thương bạc [Bùi Ân Niên] cho riêng người thông ngôn khác đến viên sứ ấy hỏi kín, thì không có chuyện ấy. Vua ghét là giáo giở, xảo quyệt, cho nên bắt tội [Nguyễn Hoằng]” (32) . Thật ra, Nguyễn Hoằng bị kết tội không oan chút nào cả. Và tên khâm sứ De Champeaux chối việc y sai Nguyễn Hoằng đến bẩm kín hăm doạ cũng chẳng lạ gì. Không phải riêng De Champeaux, linh mục Nguyễn Hoằng, các tên thống đốc Pháp tại Gia Định, khâm sứ Pháp tại Huế và các giám mục, linh mục khác đều muốn trực tiếp tâu việc với vua Tự Đức, không phải thông qua Nha Thương bạc, Viện – Bạc! Nhưng triều đình có một cơ chế là không thể trực tiếp tâu việc với vua như thế, để mọi việc đều phải được các đại thần cùng vua bàn bạc kĩ. Có khi, vua tôi phải cẩn trọng bàn bạc hàng tháng, trước khi quyết định. Không thể để một cái gật đầu, một lời đồng thuận tại chỗ, ngay lúc tiếp chuyện, vua lại phải đính chính. Một lời vua nói là đinh đóng cột, do vậy phải được bàn luận cẩn trọng, trước khi ban ra. Mặt khác, ngay Nguyễn Trọng Hợp, đại thần quản lí sụ vụ Nha Thương bạc mới, thay Bùi Ân Niên, cũng phải nói: “Các việc giao thiệp, đã do quan đại thần ở Viện Cơ mật hội đồng xét định [:bàn luận, lấy ý kiến tập thể], tâu cho thi hành…” (33) . Cố nhiên, mọi việc trọng đại đều không thể vội vàng, bất cẩn, một mình quyết định được.
De Champeaux điên tiết vì không thể dễ dàng thuyết khách trực tiếp với vua, hòng dễ bề chi phối vào các sắc dụ. Vua Tự Đức cũng rất đỗi giận dữ trước thái độ của De Champeaux. De Champeaux sau khi nhậm chức tại Huế khoảng mười tháng rưỡi, đã phải ra Bắc Kì làm lãnh sự ở Ninh Hải (Hải Dương). Rheinart lại làm khâm sứ thay y. Rheinart cũng là một tay trước đây không vừa vặn gì, thậm chí ý đồ thực dân của y còn ghê gớm hơn, nhưng y còn biết kiềm chế một cách tạm gọi là bình tĩnh hơn De Champeaux. Vua Tự Đức liền gợi ý cho Nguyễn Trọng Hợp thuyết phục Rheinart: “… Nghĩ Hoắc sứ [khâm sứ Hoắc Đạo Sinh (Philastre)] ở đây không lâu, còn biết nhân cơ hội lập công, để lại tiếng khen chung là danh thần hai nước. Huống chi [Rheinart,] hắn ở đây lâu nhiều hơn, há không làm được một việc tốt để tiếng mãi mãi hay sao? Còn như đã không chịu giúp, lại theo mà lấn bức, tưởng không phải là bậc quân tử; hay người [ta, vốn thiên lương là] có nhân, lại dụng tâm [bất nhân] thế, thì đã phụ một lời tri kỉ [, tri bỉ], chẳng cũng nhiều lắm ư? Nên đem ý ấy bảo cho hắn biết…” (34) .
Mặc dù không trực tiếp kiêm sung quản lí Nha Thương bạc nữa, nhưng đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc Nguyễn Văn Tường luôn nắm chắc những thông tin và góp phần kiến giải các vấn đề ngoại giao nẩy sinh. Ông vẫn là một trong bốn tứ trụ triều đình ở Viện – Bạc chỉ đạo cho Nha Thương bạc.
Tình hình ngoại giao với nước Pháp đã đến lúc càng bị đẩy đến chỗ gãy đổ, bởi âm mưu xâm lược của thực dân Pháp ngày càng lộ rõ với vẻ trắng trợn!
Ngoài việc lập thế đối trọng giữa Pháp và Hoa, một hướng mở khác về ngoại giao là nước Anh. Còn Y Pha Nho (Tây Ban Nha) trước đây tuy có dính líu sâu hơn vào sự xâm lược nước ta, hiện nay tuy còn quan hệ bằng quốc thư, văn thư, vẫn chỉ là dưới mức thứ yếu, trước tham vọng độc quyền ngoại giao của Pháp. Để mở ra hướng ngoại giao với thực dân Anh và cũng để tìm cách nâng cao trình độ ngoại ngữ, cơ khí cho thanh niên trong nước, triều đình đã cử Phạm Bính phụ trách đưa người xuất dương cầu học. Phạm Bính chần chừ rồi cũng nhận trách nhiệm đưa mười hai (12) học sinh (nhóm trưởng là Trương Văn Thanh) đến Hương Cảng, nhờ Thạch Thanh Tuyền, một người Thanh (Hoa), quản lãnh đến học tập tại một trường học do người Anh thành lập tại đó (35).
Cũng để đẩy mạnh thêm một bước về canh tân, ngoài việc mở rộng ngoại giao, cử người đi ra nước ngoài học tập, triều đình còn cho dịch, khắc in bốn bộ sách Tây: “Vạn quốc công pháp” (36), “Hàng hải kim châm”, “Bác vật tân biên”, “Khai môi yếu pháp” . Đó là các cuốn sách biên soạn về công pháp quốc tế, kĩ thuật đường biển, về vạn vật học và về phương pháp khai mỏ.
Tháng tám năm Tân tị (1881), thượng thư Bộ Hộ kiêm sung đại thần Viện – Bạc lại tâu lên nhà vua dự kiến sẽ gặp lại Đường Đình Canh (37), đại diện của Cục Chiêu thương Trung Hoa, để tiến hành thêm một bước ngoại giao mở rộng dưới hình thức hợp đồng vận tải.

5
Trong những tháng thuộc các quý sau trong năm Tân tị (1881) này, quốc nạn tiền giả (tiền đồng dị dạng) vẫn hoành hành! Mặc dù thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường đã từ lâu lấy bạc, một kim loại quý, làm chuẩn. Thuế nộp từ những hợp đồng lãnh trưng cũng phải bằng bạc đồng, bạc nén, bạc đĩnh để lưu trữ trong kho của triều đình. Đó là một bước xác định ngân bản vị. Với kim loại bạc, cũng như vàng, người ta dễ phát hiện sự giả mạo. Nhưng bọn gian thương lại xoay qua phá rối cách khác. Tháng bảy nguyệt lịch, mới ban bố lệnh dụ về định lệ thưởng người phát hiện tiền giả (38). Tháng tám tiếp theo, lại một định lệ khác, trong đó nhấn mạnh cả việc bọn gian thương đến nay lại vơ vét cả vàng bạc đem ra nước ngoài, phải cấp tốc ngăn chặn. Cùng máu đồng, nạn chảy máu vàng, máu bạc đã diễn ra!
“Định lại lệnh cấm tiền đồng dị dạng nhập cảng và đem vàng bạc xuất cảng:
Lúc bấy giờ ngoài việc cấm tiền đồng dị dạng, [nạn này] vẫn còn gian lận, mà vàng bạc phần nhiều bị người buôn nước Thanh mua chở đem đi, nên giá vàng bạc ngày càng đắt. Bộ Hộ [thượng thư Nguyễn Văn Tường] dâng sớ nói về tệ ấy, cho nên sức [:truyền lệnh] lại cho các người coi đồn không được sơ suất, ẩn lậu; và sức cho lại [thư lại], dân, khi thu thuế, nộp thuế hay đổi chác, nếu thấy có tiền đồng mẻ hay mỏng và không phải chất đồng, phải chọn ra, không cho để lẫn. Còn như người nước Thanh đi lại buôn bán, mang theo vàng bạc phải có giấy tư mới cho, nếu ẩn lậu không báo và mang trộm, mà bắt được thì thưởng phạt theo như lệ chở trộm tiền” (39)
.
Pháp lại che chở cho người Phú Yên tải trộm tiền đồng dị dạng ở Bình Định, lại cả gan đánh cả nhân viên ta đến truy bắt (40)! Điển nông sứ Nguyễn Thông trong tháng bảy nhuận lại tâu ra: Người buôn nước Thanh đem tiền đồng dị dạng chứa ở Gia Định thuộc Pháp, thông đồng với dân Bình Thuận, Khánh Hoà. Nguyễn Thông đề nghị phải gửi văn thư đến cả ba nơi: Tổng đốc Lưỡng Quảng, lãnh sự Anh ở Hương Cảng, tướng suý Pháp ở Gia Định (41). Nhưng Nguyễn Thông không biết rằng cả ba nơi ấy không phải không có sự tác động ngầm của Pháp để phá rối tiền tệ nước ta. Tháng chín, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại tâu xin đặt chức tuần kiểm ở các cửa biển Bình Thuận, ban lệnh dụ cho khâm phái Nguyễn Thành Ý tại Gia Định xét kĩ thuyền buôn chở tiền giả (42). Đó là những biện pháp cấp thời, nhất là xác định chính Gia Định thuộc Pháp là “căn cứ” của nạn tiền giả này. Phải chăng bọn tư sản ngân hàng Pháp ở Ngân hàng Đông Dương (vừa thành lập) (43) đã tác động thêm vào sự gây rối tiền tệ này? Lại một lần nữa, quan thượng thư Bộ Hộ cố tìm ra manh mối về kẻ thù giấu mặt.
“Tả đạo” đánh vào óc mê tín và ý thức chính trị xuẩn động, tiền tệ lại đánh vào lòng hám lợi đơn thuần của người dân và quan lại, nhưng gây tác hại không nhỏ, đúng hơn là rất nghiêm trọng, đến tình hình chính trị – xã hội. Bọn thực dân đủ loại cố tạo tâm thế bất ổn trong dân chúng, để bọn giặc ngoại xâm là chúng dễ dàng thao túng, chiếm đóng!
Những biện pháp chống đỡ trước quốc nạn và thủ đoạn ngoại xâm này vẫn chưa hữu hiệu. Đó là nỗi đau lòng nhức óc, trước hết, là của người đứng đầu Bộ Hộ, thượng thư Nguyễn Văn Tường.
Đến nay, nguyên hiệp đốc Tôn Thất Thuyết đã về kinh đô Huế, càng nhìn rõ thực trạng, có dịp gặp gỡ, trao đổi với các quan tại triều, kể cả các đại thần, ông thực lòng hối hận về lời tâu hặc trước đây vì nghe theo lời bọn giặc miệng. Ông cũng không tìm ra được kế sách gì để góp ý cho Bộ Hộ và cho cả đình thần.

Hết tệp 1 truyện kí 9

Viết đến dòng chữ này vào lúc 16 giờ 26 phút,
ngày 29.12.2002 (26.11 Nh. ngọ, HB.2),
tại thành phố Hồ Chí Minh.


TRẦN XUÂN AN


(1) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (NĐNĐDVP. & TH.), UB.KHXH. TU. Tp. HCM. xb., 1993, tr. 253.

(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 35, bản dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., Hà Nội, 1976, tr. 5.

(3) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 6.

(4) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 6.

(5) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 12 – 13.

(6) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1976, tr. 165 – 167.

(7) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 26.

(8) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 6.

(9) Quốc sử quán triều Nguyễn và Cao Xuân Dục, Quốc triều hương khoa lục (QTHKL.), bản dịch: Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Thị Lâm, hiệu đính: Cao Tự Thanh, Nxb. Tp. HCM., 1993, tr. 270. Nguyên là Lê Thế Tá.

(10) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 169 – 170.

(11) ĐNTL.CB., tập 33, sđd., 1975, tr. 12…

(12) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 8.

(13) NĐNĐDVP.&TH., sđd., tr. 269.

(14) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 17 – 18.

(15) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 20 – 21.

(16) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1976, tr. 126 – 128.

(17) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 9.

(18) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 42.

(19) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 11.

(20) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 18.

(21) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 23.

(22) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 23.

(23) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 18.

(24) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 19.

(25) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 25.

(26) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 15.

(27) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 22.

(28) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 13, 26.

(29) Châu bản, dẫn theo: Các báo cáo khoa học (CBCKH.), bài “Tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)” và bài “Nguyễn Văn Tường trong hai sự kiện tứ nguyệt tam vương và thất thủ kinh đô” của Trần Viết Ngạc, Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, 02.07.2002., tr. 18, 55.

(30) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 23.

(31) ĐNTL.CB., tập 34, sđd., 1976, tr. 370.

(32) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 32 – 33.

(33) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 38 – 39.

(34) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 44.

(35) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 26 – 27, 33.

(36) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 49.

(37) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 54 – 55.

(38) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 53.

(39) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 57.

(40) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 44 – 46.

(41) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 47 – 48.

(42) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 65.

(43) Dương Kinh Quốc, Việt Nam, những sự kiện lịch sử (VN.NSKLS), tập 1, Nxb. KHXH., 1981, tr. 173 – 175. Xem thêm: GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp. HCM. tái bản, 2001, tr. 327 – 341, 506. Dẫn theo CXL., tr. 336: Một nhà văn Pháp tiến bộ rất quen thuộc với nhiều thế hệ người đọc Việt Nam chúng ta, Anatole France, đã viết rất chí lí: “Ở Bắc Kì năm 1885, người Pháp chẳng những phải chết cho nhà băng Đông Dương mà cho cả bọn chủ kĩ nghệ”.

Chú thích xong lúc 08 giờ ngày 14.02.2002
(13.01 Quý mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.2]).


TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 1
(phân đoạn 1, truyện kí 9)

Xin xem tiếp tệp 2
(phân đoạn 2, truyện kí 9)
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.

0 Comments:

Post a Comment

<< Home