TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap III A)

Sunday, December 18, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III A 6)

Tệp 6 – Tập III Blog A
(PHÂN ĐOẠN 6 TRUYỆN KÍ THỨ 9)

TRẦN XUÂN AN

BẮC KÌ, TƯỞNG CHỪNG LẶP LẠI


Truyện kí thứ chín
(phân đoạn 6)

23

Vua Tự Đức đang lâm bệnh, nhưng nhà vua cũng cố gắng ngồi dậy thiết triều để chung niềm vui chiến thắng với các quan tại kinh cùng thần dân kinh đô Huế và quan dân cả nước. Sau buổi thiết triều đầy tinh thần quyết chiến, một mất một còn, bởi thế cỡi hổ đã thành ấy, nhà vua lên ngự giá trở về long sàng.
Các đại thần bấy giờ còn đứng ở Điện Văn minh. Triều thần vẫn đang tiếp tục bàn với nhau có nên hay không nên tâu xin mở tiệc khao quân để quân binh và thần dân lấy lại khí thế.
Quan quản lí Binh Bộ sự vụ Trần Tiễn Thành phản đối:
- “Trận tuy thắng nhưng phỏng có ích gì! Giết Henry Rivière mới là trừ được một người thù. Nhưng rồi đây sẽ có trăm ngàn người Pháp khác thay cho Henry Rivière. Trận ô Cầu Giấy không lợi gì hết mà chỉ hại cho việc giao thiệp của hai nước sau này. Mai mốt quân Pháp lại kéo ra đánh lấy Hà Nội, rồi dần dần đánh lấy cả thành Huế này nữa thì quân ta chống sao được…” (224) .
Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết đã từ lâu rất căm giận Trần Tiễn Thành, ông nói:
- Thật là hèn nhát! Là người sống trên Đất nước này, phải xả thân để trả nợ nước, nữa là ăn cơm vua, gạo dân Đại Nam, lẽ nào lại chỉ tính chuyện đầu hàng giặc. Nông nỗi quân binh yếu hèn đến thế là vì ai, quan Văn minh điện đại học sĩ hẳn tự biết! Quan lớn không biết xấu hổ cho bản thân mình sao? Hơn nữa, lúc này đã có quân Tàu hậu thuẫn, họ sẽ nỗ lực giúp ta…
Chưa bao giờ Trần Tiễn Thành bị mắng thẳng trước mặt giữa triều thần như thế. Mặc dù bệnh, nhưng ông ta thấy cần phải nói để lấy lại uy lực gần đây bị xói mòn không ít do những lời chỉ trích của triều thần. Trần Tiễn Thành cũng không kịp kìm cơn giận âm ỉ bấy lâu, nay không thể không nổ bùng. Ông ta cãi vả kịch liệt với Tôn Thất Thuyết.
Một lát, Trần Tiễn Thành nói chậm lại, môi run run vì bị kích động:
- “Tôi là người Tàu, lẽ tự nhiên là tôi phải nói hay cho nước Tàu. Song cứ xét ở thực sự thì quân Pháp tuy ít nhưng tinh nhuệ, lại có khí giới chỉnh bị. Quân Tàu và ta tuy đông nhưng không có thao luyện. Quân Tàu, tôi dám chắc rằng không thể thắng được quân Pháp” (224) .
“Tôn Thất Thuyết không bàn nữa, phủi áo quần đứng dậy, nói” (224):
- “Ông là người Tàu mà ông khinh nước Tàu, không biết nhục!” (224)
.
“Phái chủ chiến do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương. Chủ hoà, do Trần Tiễn Thành đứng đầu…” (224) . Các triều thần, dù “hoà” hay chiến, thấy đã đến lúc không thể không can thiệp. Một tham tri nói:
- Xin quan thượng thư Bộ Hộ nói cho một tiếng, không nên mất đoàn kết trong nội bộ thế này.
Từ khi xảy ra cuộc tranh luận dữ dội, quan Bộ Hộ họ Nguyễn chỉ im lặng. Ông cũng thấy không nên để cuộc đấu khẩu này to tiếng hơn, ông nói:
- Tôi xin hai quan lớn Bộ Binh bớt giận dữ. Chuyện đâu có đó, nguôi giận hãy bàn tiếp, để cùng nhau giải quyết vụ việc. Thật ra, chuyện mở tiệc khao quân hay không cũng chưa được sắc dụ ban cho đình nghị. Đây cũng không phải nơi bàn việc để tâu trình. Vả lại, vấn đề lớn hơn nhiều, đằng sau vụ việc này, đó mới là cái phải quan tâm. Tôi chỉ nói vắn tắt, “thế cỡi hổ đã thành” ! Thật sự ta không đánh bọn Pháp, chúng cũng đánh ta. “Hoà” cũng không được nữa, mặc dù “hoà” là hạ sách, đau lòng và nhục nhã vô kể. Tục ngữ ta có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh”. Cực chẳng đã mà đức vua bản triều phải “hoà” với Pháp và Y, ngay nước Thanh cũng phải “hoà” với Nga, Đức, Anh, Mỹ, Pháp… Nhưng lúc này, một là, không chiến thì bọn Pháp không lùi chân, không chùn tay; hai là, chúng lại quyết đánh ta đến cùng. Vậy thì không thể không chiến. Dứt khoát phải chiến. Phải giành giữ cái thế không khuất phục, mới nói chuyện với bọn Pháp được (225). Không thể cứ chuyên nhất một đường lối chủ “hoà”, mà phải biết linh hoạt, kinh quyền, “dĩ bất biến ứng vạn biến” (lấy cái bất biến [là tinh thần yêu nước, chống Pháp] mà ứng xử tuỳ mọi tình thế [giữa địch và ta…]). – Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói –. Tôi chỉ xin hai quan Bộ Binh giữ tình đoàn kết và cũng chỉ xin nói như vậy.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường muốn nói thêm một điều nữa: Nếu bị bọn Pháp dồn đến mức cuối cùng, thì cũng quyết đánh một trận tối hậu rồi chết cũng đành, bởi đạo lí nghìn đời là “thà chết vinh còn hơn sống nhục” (ninh thụ tử [vinh], bất ninh [sinh] thụ nhục) . Rồi người khác, hay thế hệ sau, sẽ tìm cách cứu gỡ khỏi ách nô lệ. Lớp sau sẽ có lớp sau nữa kế tiếp. Và cứ như thế. “Tre già măng mọc”, lo gì! Ông không muốn nói ra thành lời, bởi ông ngại các quan đang đứng xung quanh sẽ suy diễn ra: Thượng thư Nguyễn Văn Tường chấp nhận triều Nguyễn sụp đổ tan nát trong vinh quang, để sử sách sẽ nhìn đời ca ngợi như đã từng ca ngợi và mãi mãi ca ngợi triều đại Hai Bà Trưng, triều đại Mai Hắc Đế, triều đại Hậu Trần…
Nhưng không ai nói gì nữa. Họ thi lễ rất đúng phong thái kẻ sĩ đại quan, chào nhau, ra về.

24

Tháng tư nguyệt lịch Quý mùi (1883), nhân dân các tỉnh Hải Dương, Hà Nội, Ninh Bình lại gặp cơn giáp hạt, đói kém. Bộ Hộ của thượng thư Nguyễn Văn Tường phải lo toan việc phát chẩn cho dân vượt qua nỗi ngặt nghèo (226). Hơn nữa, nhà vua đang trong những ngày chống chỏi một cách tuyệt vọng với những cơn ho liên tục, với ung nhọt căng cứng sau lưng, không thuốc thang, mổ xẻ nào lành lặn hẳn. Do đó, tiệc khao quân phải đình hoãn, chỉ treo cờ khắp kinh thành và các tỉnh thành để thể hiện niềm vui, tự hào chiến thắng. Chiến thắng mà không vui lại là một sai lầm, khiến người dân hoang mang không hiểu vì sao, rất không tốt.
Quân thứ Bắc Ninh chợt có tin quân báo, quân thứ Sơn Tây và vài toán quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc lại hành binh xuống đánh tiếp, mở trận địa ngay tại mặt phố Hà Nội (227). Tham tán Bùi Ân Niên, tổng đốc Trương Quang Đản liền cho quân vượt sông Hồng, hội quân lại, cùng quyết đánh bọn Pháp (227). Quân Bắc Ninh được lệnh đem súng lớn đến đặt trên đê Nhị Hà (sông Hồng), bắn suốt mấy ngày. Tàu binh của quân Pháp không khỏi bị tổn thương, có một, hai chiếc thủng cả mạn tàu, có chiếc gãy đổ cột buồm, nghiêng nghiêng bỏ chạy như chú gà chiến bại. Bọn Pháp không dám nghênh chiến. Rất tiếc quân ta không có thuỷ quân với tàu chiến tối tân để tiếp tục rượt đuổi tàu Pháp.
Sau đó, quân thứ Sơn Tây rút về phủ Hoài Đức (Hà Nội). Nước lũ mùa hạ lại tràn về, sông Hồng cuồn cuộn sóng, mực nước dâng lên từng khắc một. Các cỗ súng phải chuyển dời về đặt trên bờ sông Chiêm Đức, binh dõng về cố thủ Gia Lâm, tăng cường phòng bị (227).
Rất nức lòng và mong tin chiến thắng, trên giường rồng, vua Tự Đức cố nén cơn đau âm ỉ và ran ran trong ngực ngỡ có khi ngạt thở, để cầm bút châu phê: “Binh luyện sao dã rút về! Không trách mấy ngày nay mong tin thắng trận không thấy. Đánh giặc chỉ có hai quân thứ các ngươi, bọn ngươi đều nên nghĩ kĩ, làm thế nào cho xứng đáng mới được” (227) .
Dẫu chưa thắng lớn, đó cũng là một tin vui từ mặt trận.
Tháng tư nguyệt lịch Quý mùi (1883) vẫn lần lượt ngày nối ngày trôi qua trong nỗi mong chờ tin báo tiệp.
Nhưng từ Gia Định, khâm phái lãnh sự Nguyễn Lập tâu trình ông ngã bệnh, xin về để điều trị. Nguyễn Thành Ý được lệnh dụ vào thay (228). Và một tin cấp báo khác: người khách (nước Thanh) tên là Chu Nhi lại giả mạo làm phái viên Tây dương, doạ nạt phố Hà Nội. Lệnh chém liền ban ra (229).
Giặc biển tháng trước mới quấy nhiễu thành phủ Thái Bình tỉnh Nam Định. Lực lượng đến sáu mươi (60) tàu thuyền và khoảng năm đến sáu trăm tên hải tặc. Tạ Hiện, Hoàng Văn Phú ở sở tại cùng quân tỉnh bạn Hưng Yên quét sạch chúng khỏi thành (231). Tháng năm nguyệt lịch, Quảng Yên lại đánh bắt bọn hải tặc, thắng trận (230). Những tên Bình, tên Mía, tên Nghĩa là tướng giặc đều chịu rơi đầu (231). Nội phỉ vẫn còn chưa dứt hẳn, thậm chí chúng toan đục nước béo cò!
Tháng tư, bố chính sứ Quảng Tây Từ Diên Húc, người đã nhiều lần xướng hoạ thơ văn với thượng thư Nguyễn Văn Tường hồi ông còn là tán lí quân vụ, lại từ Lạng Sơn đến Bắc Cần (232).
Ở kinh đô, thượng thư Nguyễn Văn Tường theo dõi và trực tiếp chỉ đạo cho Bùi Ân Niên tiếp xúc với Từ Diên Húc. Bùi Ân Niên đến gặp họ Từ, thương thuyết về hiện tình Bắc Kì. Từ Diên Húc nói: “Sang lần này, tất vì nước Nam cứu ứng, duy mùa xuân năm nay, Lý Hồng Chương gặp mặt, trách công sứ Pháp ở Thiên Tân [Trung Hoa] là Bảo Hải [:Bourrée], nói “Nước Nam là thuộc quốc cũ của nước Thanh, đã hoà, sao được cùng phạm”. Bảo Hải đưa trình tờ “hoà” ước. Trong “hoà” ước có câu “Nước nam là nước tự chủ”. [Bảo Hải (Bourrée)] bảo rằng, không can thiệp gì đến Trung Quốc, cho nên Trung Quốc lấy giúp ngầm làm chủ, cốt không cho nước ấy mượn cớ [gây chiến]. [Nhưng] nếu quả là [hai nước Trung, Pháp] cùng xâm phạm [đến “hoà” ước], thì tất phải chiến tranh. Nay đã giúp súng ống cho doàn quân Lưu Vĩnh Phúc, lại [đã] khuyên [Lưu Vĩnh Phúc] đánh giúp” (232) .
Bùi Ân Niên về lại doanh trại quân thứ, viết sớ dâng vào kinh. Ở Viện – Bạc, thượng thư Nguyễn Văn Tường đọc thấy: “Bố chính họ Từ sang lần này thực có ý cứu giúp nước ta. Xin sắc cho quan ở bộ viết thư yên ủi, khuyên cố sức mưu toan” (232) . Thượng thư Nguyễn Văn Tường bàn với thượng thư Tôn Thất Thuyết rồi tâu lên vua. Vua chuẩn y.
Tháng năm nguyệt lịch Quý mùi (1883), công việc ngoại giao vẫn lại tiếp diễn. Từ Diên Húc cùng với thống lãnh Hoàng Quế Lan, Triệu Ốc chuyển quân đến Bắc Ninh, lại phái tiến sĩ chủ sự Đường Cảnh Tùng đem hai trăm (200) quân tinh nhuệ đến đóng kề doanh trại Lưu Vĩnh Phúc, trù tính kế hoạch. Bùi Ân Niên khoản đãi, và nói: “Quý đại nhân sang lần này có tờ dụ rõ ràng. Vua nước Thanh dụ cho giữ gìn Bắc Kì. Xin hết sức giúp cho” (232) . Từ Diên Húc là bảo, “định vài ngày nữa [sẽ] về Long Châu [ở Trung Quốc], bàn định công việc” (232) .
Nằm trên giường bệnh, vua bảo: “… Sao đi lại nhiều quá thế! Phụ lòng trông ngóng người thì sao? Bọn ngươi nên gia tâm thương thuyết với viên bố chính ấy, xem cơ sự, hết sức làm việc” (232) .
Tình huống ấy khiến thượng thư Nguyễn Văn Tường, người chủ trương kiến nghị, được chuẩn y và được giao phó đặc trách liên minh quân sự với Trung Quốc, rất đỗi âu lo, nhất là từ tháng tư Quý mùi (1883), lúc ông nhận được tin từ phái bộ do Phạm Thận Duật dẫn đầu, hiện đang trú tại Thiên Tân (ở Trung Quốc):
“… Tháng hai [năm Quý mùi, 1883, trước thời điểm này hai tháng]… bọn [Phạm] Thận Duật đến Thiên Tân thì nước Pháp đã có thư đến, nói không chịu điều đình, và vin lấy cớ hoà ước năm Giáp tuất [1874] có câu: “Nước Đại Nam có quyền tự chủ, không phải theo phục nước nào”, [để] không cho nước Thanh nhận nước ta làm thuộc quốc. [Pháp] lại rút sứ [thần] Bảo Hải [:Bourée] về, mà cho Lý Đức Cố [:Tricou] sang thay. Sau [tức tháng tư, tháng năm này], [Pháp] lại lấy việc thuỷ sư nước [Pháp] ấy Lý Ba Lợi [:Henry Rivière] chết ở ô Cầu Giấy làm thâm thù, lí luận càng không ăn thua gì. Lý Hồng Chương lại đưa thư, báo cho Tăng Kỷ Trạch, là khâm sứ nhà Thanh đóng ở nước Anh, sai liên ước với sứ thần các nước Anh, Nga, Phổ, để giảng giải việc ấy, mà cũng chưa có thư trả lời…” (233) .
Dẫu biết không hề hoàn toàn thuận lợi, nhưng đây là tình thế bức bách, không thể không tiếp tục đẩy mạnh để tình thế thuận lợi hơn xuất hiện. Cũng không thể ngồi im chờ thời, mà phải tạo ra sự thuận lợi ấy! Thượng thư Nguyễn Văn Tường đã mật bàn cùng Tôn Thất Thuyết tại nhà vuông mới xây gần đây của Viện Cơ mật – Thương bạc thật tỉ mỉ, với sự dự kiến nhiều khả năng tốt, xấu sẽ xảy ra, cùng nhiều phương án… Hầu như hai đại thần này đã hoàn toàn chịu trách nhiệm trước vận mệnh Tổ quốc, số phận nhân dân, trước vua Tự Đức và các triều thần, biên thần, hoàng thân, tôn thất.

25

Thế là “quân Pháp đã thua. Phái viên nước Pháp ở Hà Nội lại sai người về Gia Định, đem thêm tàu binh chạy đến Bắc Kì. Khâm phái là Nguyễn Thành Ý đem việc tâu [về Huế để được phúc tâu] lên [vua]” (234) .
Vua Tự Đức ra sắc dụ, sau khi nghe Viện – Bạc tấu trình, kiến nghị:
“Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, sau khi đánh được thắng trận, đã lâu ngày, không thấy thừa thế tính lại ngay lại, để cho chúng có thì giờ mưu việc cứu viện. [Như thế] thì đến bao giờ mới phá được sào huyệt, đánh đắm được tàu, cho chúng chạy xa, để lấy lại hai tỉnh, cho yên lòng mọi người.
Vả lại, thế cưỡi hổ đã thành. Ta không tính [:đánh] chúng, chúng cũng tính [:đánh] ta. [Ai] tính [:đánh] trước được thì thắng. Nên cùng lòng, hợp sức tính [:đánh] ngay, khỏi đến nỗi đắp núi còn thiếu một sọt đất. Trẫm hàng ngày mong mỏi các ngươi nên hết lòng tính [:đánh] ngay mới được.
[Trẫm muốn] lại sai [thông] tư cho các quân thứ, các tỉnh biết để cố gắng tính [:đánh] ngay. Và [thông] tư cho khâm sai đóng ở Thiên Tân, khâm phái đóng ở Quảng Đông, bẩm khéo với Lý Hồng Chương và tổng đốc Quảng Đông, trù tính ngay cho, để khỏi sinh khó khăn” (234)
.
Lại nghe tin có thể có thuyền buôn gạo giúp lương thực cho giặc Pháp, hiện chúng vẫn đóng tại thành Nam Định, nhà vua liền có lệnh cấm thuyền buôn từ Quảng Bình ra đến Bắc Kì không được đi lại buôn bán ở tỉnh ấy (235). Đồng thời, vào tháng sáu, sợ xảy ra nạn đói, triều đình phải cấm nhân dân Bắc Kì không được chở thuê, bán gạo cho khách buôn, mặc cho Pháp đang thu thuế, cho xuất khẩu gạo (236).
Và tin tức, vào tháng sáu nguyệt lịch, Quý mùi (1883), lại tiếp tục bay về kinh đô: Tàu giặc Pháp, một lớn, một nhỏ, đi đến sông Hát, sông Nhật Chiểu thuộc Sơn Tây! Súng quân địa phương liền nổ. Một tên lính Pháp chết tại chỗ. Tàu giặc Pháp sợ hãi rút ngay (237). Khâm phái lãnh sự Nguyễn Thành Ý ở Gia Định lại bị Pháp trục xuất, với lí do: “Ở đây sợ có hại cho sáu tỉnh [Nam Kì]” (238) !

26

Vua Tự Đức lại trở căn bệnh cũ một cách nguy kịch.
Từ trước tháng chạp năm Nhâm ngọ (1882, bước sang 1883), sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai khoảng vài tháng, nhà vua biết tình hình rất nan giải, không thể không âu lo, đau xót, nên đã ngã bệnh nặng. Trong thời gian đau ốm ấy, nhà vua đã quở trách hoàng quý phi Vũ thị và ra sắc dụ giáng xuống trung phi với những lời lẽ rất nghiêm, vẫn trên tinh thần luật pháp bất vị thân, cho dẫu đó là người vợ vốn được nhà vua sủng ái, trọng thị nhất: “Thế mà từ khi trẫm bị ốm nặng đến nay… […] … Nên phạt một người để răn trăm người, thấy phép mới biết ơn” (239) . Bệnh trầm kha đau đớn thân xác, khổ đau chua chát về tinh thần, cả hạnh phúc riêng tư cũng không trọn vẹn!
Bệnh lại đỡ. Nhưng “tự hạ tuần tháng tư, [vua Tự Đức] hơi yếu, vài ngày dần khỏi. [Nhà vua vẫn] cố sức làm việc. Những chương sớ các nơi, đều cho theo như thường dâng tâu, tuỳ việc phê phó. Rồi nhân khó nhọc, thành ra ốm nặng. Quan Viện Thái y hầu thuốc không có hiệu quả” (240) .
Khi “vua bị ốm, làm sẵn tờ di chiếu cho hoàng trưởng tử nối ngôi” . Bấy giờ, nhà vua còn “ngồi tựa ghế ngọc” ở Điện Cần chánh, trao tờ di chiếu và cả tờ di chúc cho ba đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc. Trần Tiễn Thành đã vâng lệnh vua, đọc di chiếu cho bốn vua tôi cùng nghe. Nguyễn Văn Tường phụng dụ đọc di chúc, cũng với cách thức như thế (241).

DI CHIẾU (242)

“Chiếu rằng:
Trẫm là con thứ hai của bà [vợ] cả [:chánh thất] của đức tiên đế. Nhờ trời đất, ông cha cho nối nghiệp lớn, làm vua nước Nam ba mươi sáu (36) năm nay. [Trẫm] lo sợ hằng ngày, thường sợ không dám làm nổi, khốn nỗi người yếu, đức mỏng, tài kém, lỗi nhiều, đương mong đổi lỗi chưa xong, đâu dám quá nghĩ thành ốm. Duy lo lắng đã lâu, lại thêm khó nhọc; năm trước đã phát bệnh ho, hạ tuần tháng tư năm nay, bệnh bỗng phát to, trăm chứng hư tổn, đều phát ra cả. [Trẫm] đã uống thuốc để chữa, [nhưng bệnh] càng ngày càng tăng.
Lòng thành đến nay mới được hơi có cơ hội. Không may mà vội chết, để [lại nỗi] thương [:đau] đến muôn đời [chưa gỡ được].
[Cơ] trời khó tin, mạnh [:vận mệnh, số mệnh] không thường [:vô thường], phàm việc việc phải dự bị trước. Trẫm nuôi sẵn ba (03) con. Ưng Chân, cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đã lâu; nhưng mặt hơi có tật, giấu kín không rõ ràng, sợ sau không sáng; tính lại hiếu dâm; cũng rất là không tốt; chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này, không dùng hắn thì dùng ai? Sau khi trẫm muôn tuổi, nên cho hoàng tử Thụy quốc công Ưng Chân nối nghiệp lớn, lên ngôi hoàng đế. ([Ưng Chân,] ngươi nên nghĩ kĩ, sáng nghiệp, thủ thành đều khó khăn, nối theo không dễ. [Hãy] không dám bừa bãi chút nào, chỉ mong cho được việc, không thẹn với mệnh trời).
Tấn tôn hoàng thái hậu làm Từ Dụ thái hoàng thái hậu, ngõ hầu trẫm báo ơn muôn phần được một phần. Tôn trung phi làm hoàng thái hậu, coi việc bên trong, dạy bảo vua nối ngôi. Trẫm chỉ có một mẹ một con, ngày thường nương nhờ nhau. Nay không được tống chung mẹ [:tống tiễn mẹ về nơi an nghỉ cuối cùng, mà mất trước mẹ], là trẫm đại bất hiếu. [Về trung phi,] mẹ con ngươi nên khéo thờ thái hoàng thái hậu, cốt cho vui lòng, ngày càng mạnh khoẻ, tiếng tốt trọn vẹn. Gia pháp bản triều rất nghiêm, từ trước không có lệ buông rèm nghe chính sự.
Bọn Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng ta gặp biết, tuy có sớm muộn hơi khác, mà lòng trung thành, yêu mến, chăm lo như một; từng làm việc nơi cơ yếu đã lâu, thân được chỉ bảo; nếu có gặp việc khó khăn, cũng giải quyết được. Vậy cho Trần Tiễn Thành sung làm phụ chính đại thần; Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết sung cùng là phụ chính đại thần. Bọn ngươi nên nghiêm sắc mặt đứng ở triều đình, giữ mình đứng đắn, đốc suất quan thuộc, mọi việc cùng lòng làm cho thỏa đáng; trên giúp vua nối ngôi điều không biết đến, dưới chữa chỗ lệch lạc cho các quan, để Nhà nước yên như núi Thái Sơn. Thế là không phụ sự ủy thác.
Thống đốc Hoàng Tá Viêm thân tuy ở ngoài [triều đình], thực quan hệ việc biên phòng, lâu nay dẹp yên biên giới Bắc Kì, trung thành, công nghiệp rực rỡ. [Nay trẫm] cho ngươi làm Trấn Bắc đại tướng quân. Các việc quân, bình Tây định Bắc, đều giao cho [ngươi] cả. Ngươi nên cố gắng, chớ bỏ mất mệnh lệnh của trẫm.
Thọ Xuân vương, Tuy Lý quận vương đều là rất thân, tuổi và đức cùng cao, trẫm vẫn kính trọng. Phàm thấy việc Nhà nước có điều gì không phải, nên nói hết để sửa chữa, cho đều được tốt, thế mới [nên] yên trong lòng.
Còn ngoài ra, hoàng thân, quốc thích, các quan lớn nhỏ trong ngoài, đều là phận nghĩa vua tôi, việc gì đợi kể tên, đều đem lòng trung lương để giúp vua các ngươi. Giúp được việc khó lúc này, để tiếng mai sau, mãi cùng [Đất] nước, cùng hưởng phúc vô cùng.
Phải kính theo dụ này”.
“[Tái bút:] Lại cho hoàng tử thứ ba [Ưng Đăng, từ nay chính thức] sung làm hoàng tử. Lăng mộ đều làm theo tiết kiệm. Về miếu hiệu xưng tôn, trẫm không có công to, không được coi là tổ. Trẫm sẽ nói rõ ở tờ di chúc sau này [:sau đây]” (242).

DI CHÚC (243)

“1. Trong ba (3) người con, thì Ưng Chân đã nói rồi.
Ưng Kỹ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác, cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được.
Duy con út là Ưng Đăng, hầu hạ cẩn thận, biết sợ [trời mà lo cho đời], dạy được, chưa thấy có vết gì, nhưng tuổi còn ít, đương học chưa thông, đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu. Cho nên trẫm cắt bỏ lòng riêng, theo lẽ công, quyết thi hành mưu kế lớn, là vì xã tắc. Nghĩ ơn nuôi nấng hết lòng, không nên để cho phân biệt, nhưng chưa kịp làm, nay cho sung làm hoàng tử, cho đổi tên là Ưng Hỗ. Ngươi, là Ưng Chân, phong cho [Ưng Hỗ] tước công, xây dựng cửa nhà vườn ruộng, phái người cẩn thận sung làm giúp việc, chọn con gái lương gia làm thiếp hầu, khiến cho học hành thông thuần, giữ phú quý mãi.
Anh em các ngươi, biết hoà thuận, yêu mến nhau, trước sau như một, [thì] cũng có thể yên lòng ta nơi chín suối.
2. Điện Hoà khiêm, làm chỗ chôn, sau làm chỗ thờ. Còn Điện Lương khiêm để làm chỗ thờ vọng mẹ ta, [phía] sau cũng đặt một án không, không có bài vị. Bọn ngươi cũng sớm tối dầu chè, thờ phụng cho cẩn thận, cho tấm lòng ngày thường nhờ nhau không quên. Hai nhà từ trước vẫn dùng thì nhà học [phi], thiện [phi], hai phi ở, nhà Minh ôn thì chứa đồ thờ, hoặc tiếp khách, còn thì chia nhau mà ở. Nữ quan thì để lại Thị Kiên, Thị Để, Thị Siêu, Thị Lai, thái giám là Nguyễn Phượng cùng một người cung giám, đủ làm việc. Còn thì để hầu vua nối ngôi. Chúng đều hơi quen.
3. Ngọc trân châu, kim cương, khoảng năm Minh Mệnh, Thiệu Trị mua nhiều, để làm mũ đai vua dùng. Nay thì một tí [cũng] không dùng. Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, những ngọc đem làm đều là đồ cũ. Vua Hạ, vua Vũ ăn mặc tiết kiệm mà sắm mũ áo tế trời đất thì rất tốt đẹp, thực là thế đấy. Trẫm từ trước đến giờ, người yếu, mũ áo ít dùng đã lâu, là ý đã nghĩ đến việc ấy.
Còn việc khâm liệm, [thi hài] vẫn mặc áo khăn thường mà thôi. Tất cả mũ đai châu ngọc là thứ khó mua, để lại cho vua nối ngôi truyền cho con cháu đời đời dùng mãi. Sau có đời nào giàu có thừa thãi thì làm lại.
Phàm là thần tử người nào trái lệnh là bất trung bất hiếu, không có tội nào to lớn hơn nữa, quyết không thể trái được.
Lăng mộ cũng đều theo tiết kiệm, không được trái ý trẫm.
Trẫm có tội với tổ tiên, không dám [được] thờ vào Thế miếu, trước đã nói rồi; chỉ có quan và dân lượng thứ cho. Miếu hiệu đều xưng tông, như phép nhà Hán, không đặt nhiều tên thụy. Trẫm không có công to, không được xưng là tổ; cũng nên theo thế mà làm” (243)
.

Đọc xong, mỗi người đều thi lễ, bước đến chiếc án thư chính giữa điện, trước ghế ngọc vua ngồi, kính cẩn đặt xuống hai bản di chiếu, di chúc ấy.
Nhà vua nói, giọng nhỏ yếu, với tất cả thành khẩn, thiết tha:
- Các khanh thấy thế nào? Đây là việc trọng đại quan hệ đến an nguy thiên hạ. Trẫm từ mấy chục năm nay, tự hiểu mình đức mỏng, không có con nối dõi… – Vua Tự Đức nghẹn ngào –. Nhưng thôi… Bây giờ, các khanh cho trẫm biết, di chiếu, di chúc như thế đã được chưa. Trẫm đã suy nghĩ, đắn đo nhiều, trước khi hạ bút.
Cả ba đại thần đều im lặng, không ai không xúc động, đau đớn. Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết hiểu nhà vua cần tham khảo ý kiến một cách cẩn trọng như những lần phải có quyết định trọng đại khác. Họ cũng không dám nói gì. Đợi một lúc lâu, nhà vua hơi quắc mắt giận dỗi. Một lát, vua nói:
- Các khanh có thể lui sau nhà vuông Viện Cơ mật – Thương bạc để bàn luận với nhau. Trẫm biết các khanh cẩn trọng và dè dặt… Thì cứ như thế. Hãy lui sau đó hội ý. Trẫm vẫn ngồi đây chờ các khanh, độ khoảng đọc xong vài ba trang sách.
Những thị vệ mở cửa nhà vuông, sau khi nghiêm chào. Ba đại thần bước vào, ngồi ở hai ghế trường kỉ, giữa họ là chiếc bàn mặt gỗ rộng.
- Hai quan lớn thấy sao? – Quan Văn minh điện đại học sĩ khơi vấn đề –.
Ngẫm nghĩ một lúc, hiệp biện đại học sĩ Nguyễn Văn Tường nói, giọng trầm hẳn, đầy ưu tư:
- Tôi thấy đoạn răn bảo cho vua nối ngôi Thụy quốc công Ưng Chân, không hợp với bài di chiếu lắm. Dụ răn bảo thì đúng, phải thật, phải cụ thể, nhưng đây là di chiếu, sẽ công bố cho toàn dân thiên hạ, e không hợp (244).
- Tôi nghĩ nên để riêng đoạn ấy vào một bài dụ khác. Không nên không răn bảo. Nhưng ý của quan lớn Bộ Hộ là rất chí lí. – Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết góp lời –.
- Tôi cũng nhất trí vậy. Và thế thì xin quan Bộ Hộ chấp bút viết cho bản sớ khoảng năm, sáu hàng chữ thôi.
Viết xong bản sớ, họ chuyền tay nhau đọc lại, kí tên vào. Sau đó, cả ba đại thần bước sang Điện Cần chính. Vua Tự Đức đang ngồi trên ghế ngọc, vẫn gương mặt xanh xao, đang tranh thủ đọc, suy nghĩ, châu phê trên các nguyên bản tấu sớ hoặc các phiến tâu (vốn đã tóm lược các bản tấu, sớ từ các tỉnh).
Quan Văn minh điện, quản lí sự vụ Bộ Binh Trần Tiễn Thành tấu trình bản sớ. Vua Tự Đức cau mày, bảo:
- Các khanh nói chí lí. Nhưng không thể bớt đoạn ấy, cũng không sang qua một bản dụ khác. Trẫm đã nghĩ kĩ. Vua nối ngôi phải được trăm quan, bá tánh biết rõ thói hư tật xấu để không thể tái phạm. Thiên hạ, triều thần là tai mắt kiểm sát thường xuyên. Trẫm “nghĩ việc phó thác tôn miếu, xã tắc là việc trọng đại, lo sâu nghĩ xa, cho nên nói khẩn thiết như thế. Đại thần được dự nghe mệnh lệnh dặn lại, phải nên trên thể theo ý […] [trẫm] mà tuyên bố cho mọi người nghe…” (241) . Phải công bố đúng với ý của trẫm như đã viết. – Ngừng lại, vua Tự Đức thoáng một chút đăm chiêu, nghĩ ngợi, rồi lại nói –. Trẫm nói vậy, các khanh phải cố hiểu ẩn ý của trẫm.
Ba đại thần đều hiểu vua Tự Đức từ lâu không muốn lập vua nối ngôi là Ưng Chân, mặc dù cũng từ rất lâu rồi, Ưng Chân đã được chính nhà vua chọn làm hoàng tử trưởng, một chức danh gần như thái tử (người chắc chắn sẽ được nối ngôi). Có một mâu thuẫn vô thức nào đó nhà vua không ý thức rõ rệt chăng? Hay nhà vua ý thức rõ rệt về những khuyết tật lẫn bản tính xấu xa khó sửa chữa của Ưng Chân, muốn đặt ba đại thần lẫn hoàng tộc, thần dân trước một ngã ba chọn lựa, nhưng nhà vua cố giấu? Rõ ràng khi đọc xong di chiếu, di chúc, bất kì người nào cũng nghiêng tình cảm và sự biểu quyết lựa chọn về phía Ưng Đăng, cho dẫu trên minh văn, rõ ràng nhà vua chỉ định Ưng Chân! Vì sự độc lập, tự chủ của Đất nước, vì sự ấm no của nhân dân, và vì sự bền vững của triều Nguyễn, người được chọn nối ngôi phải chính là Ưng Đăng, chứ không phải Ưng Chân hoặc Ưng Kỹ! Phải chăng vua Tự Đức muốn các đại thần, triều thần và hoàng tộc thanh minh cho nhà vua vụ Hồng Bảo bị phế, bằng cách truất phế Ưng Chân, kẻ không xứng đáng làm vua? Nghe nói, trong những ngày nằm trên giường bệnh, nhà vua còn bị ác mộng vì mặc cảm, mặc cảm ấy là do trước đây đã phải quyết định phạt tù anh ruột là Hồng Bảo (đến nỗi Hồng Bảo tự thắt cổ), rồi phải xuống lệnh xét án cháu ruột là Đinh Đạo, và mức án đúng luật là tử hình. Phải vậy chăng? Còn Ưng Chân, phải chăng Ưng Chân đã từ lâu đáng bị trừng phạt theo pháp chế triều Nguyễn, vì thói xấu và sai lầm của bản chất Ưng Chân, mà các đại thần, triều thần sẽ làm rõ sau khi nhà vua băng hà?
Thật không có gì rõ ràng đến mức tuyệt đối! Ba đại thần chỉ mới biết đến di chúc, di chiếu ấy trong sáng hôm nay, chưa đủ thời gian để phân tích, chiêm nghiệm những uẩn khúc. Liệu những phân tích, chiêm nghiệm có sa vào xuyên tạc hay ít ra cũng suy diễn chủ quan?
Không cách nào khác, ba đại thần tuân lời vua Tự Đức bảo, không dám tiếp tục tâu xin gác lại một đoạn di chiếu hoặc đưa đoạn ấy sang một bản dụ răn bảo khác. Cả ba vị quan đều không thể không băn khoăn theo suy nghĩ riêng của mỗi người trước việc trọng đại này. “Trẫm nói vậy, các khanh phải cố hiểu ẩn ý của trẫm”? Vậy là thế nào? Ba đại thần đều băn khoăn.
Trung tuần tháng sáu nguyệt lịch Quý mùi (1883) ấy, vua Tự Đức mệt nặng, chưa bao giờ gương mặt xanh xao, hốc hác và lộ rõ nét đau đớn đến thế. Nhà vua biết mình không thể qua khỏi căn bệnh này, trong hoàn cảnh nước nhà nguy khốn, gay go nhất.
“Đến ngày mười bốn (14) tháng [sáu] ấy, là ngày nhâm tuất, [vua Tự Đức] tuyên triệu Cơ mật viện đại thần là Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào hầu. Vua ở trong cung, chính tay phê vào tờ di chiếu cho hoàng trưởng tử Thụy quốc công nối ngôi vua” (245) .
Ba đại thần đều rưng rưng nước mắt.
Hai hôm sau, “ngày mười sáu (16), là ngày giáp tí, giờ thìn (7 – 9 giờ sáng), vua [Tự Đức] mất ở Điện chính Kiền thành. [Khi] đặt [thi hài] vào quan tài, hoàng thân và các quan văn võ đều ở cả đấy. [Lúc] mở tờ di chiếu ở Điện Cần chính, vua nối ngôi là hoàng trưởng tử Thụy quốc công khóc lạy, nhận mệnh lệnh vào Điện Hoàng phúc cư tang” (245) .
Cùng với các đại thần và triều thần, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường vấn khăn, mặc áo quần chế bằng vải sô trắng, để tang vua Tự Đức. Nhớ đến ân tri ngộ quân phụ – thần tử với bao nhiêu tháng ngày trong suốt chín năm vua tôi gần gũi sớm hôm tại triều, luận bàn việc nước, cũng có khi thân thiết thăm hỏi chuyện con cháu, sức khoẻ, ông bật khóc. Ông cố kìm nén tiếng khóc, nhưng nước mắt cứ ràn rụa chảy trào.

Hết tệp 5 truyện kí 9

Viết đến dòng chữ này vào lúc 16 giờ 26 phút,
ngày 29.12.2002 (26.11 Nh. ngọ, HB.2),
tại thành phố Hồ Chí Minh.


TRẦN XUÂN AN


(224) Phan Trần Chúc viết theo “Kí ức của khâm sai Huỳnh Côn do Jean Jacnal ghi lại” (Mémoires de S.E. Huỳnh Côn par Jean Jacnal), Vua Hàm Nghi (Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951), Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995, tr. 4 – 6. Về cuốn sách “Vua Hàm Nghi” của Phan Trần Chúc, tôi đã có dịp phê phán trong các chú thích trước thuộc bộ truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này.

(225) Châu bản, bản tấu của Nguyễn Văn Tường ngày 10 tháng 08 năm Tứ Đức 26 (1873), dẫn theo: Trần Viết Ngạc, trong tập Các báo cáo khoa học (CBCKH.), Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, 02.07.2002., tr. 16.

(226) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 194.

(227) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 194.

(228) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 195.

(229) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 195.

(230) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 191.

(231) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 196.

(232) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 196 – 197.

(233) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 161 – 162.

(234) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 197.

(235) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 197.

(236) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 198.

(237) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 197 – 198.

(238) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 198.

(239) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 165 – 166.

(240) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 198.

(241) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 231.

(242) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 199 – 200.

(243) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 200 – 202.

(244) PCĐTTT., [trong đó có in lại bài viết của Đào Duy Anh trong Tập san “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des amis du vieux Huế [BAVH.], Cadière làm chủ bút, số 4 – 6/ 1944), bản dịch Bùi Trần Phượng], Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 71 – 72.

(245) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 198.

Chú thích xong lúc 08 giờ ngày 14.02.2002
(13.01 Quý mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.2]).


TRẦN XUÂN AN


Ghi chú về tác giả:
Trần Xuân An
(có bài kí bút danh: Trần Ngôn Sử)
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).

1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa” , bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.

DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)

Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/ & … 2a … 2b … 2c …
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm

Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm

Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com


TRUY CẬP THÊM CÁC ĐỊA CHỈ WEBs/ BLOGs
(xin bấm vào LINKs sau đây):

http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/

http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/

http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/

http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/

http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/

http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2c.blogspot.com/

http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/

HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
WIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
[ có thể xem như trang chủ { # homepage # } ] –
http://www.blogger.com/profile/14904482
– ĐỂ TỪ CÁC ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.

NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An


Hết tệp 6
(phân đoạn 6)
- trọn truyện kí 9.

Xin xem tiếp tệp 7
(phân đoạn 1, truyện kí 10)
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”,
blog B :
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III A 5)

Tệp 5 – Tập III Blog A
(PHÂN ĐOẠN 5 TRUYỆN KÍ THỨ 9)


TRẦN XUÂN AN

BẮC KÌ, TƯỞNG CHỪNG LẶP LẠI


Truyện kí thứ chín
(phân đoạn 5)

18

Ở Huế, các đồn Lộ Châu, Triều Sơn trên tuyến phòng thủ cửa Thuận – sông Hương được tăng cường thêm năm trăm (500) biền binh (188). Lính trạm các cung đường từ kinh ra Bắc Kì đều được phụ cấp thêm tiền gạo để phục vụ quân bưu một cách có năng suất, hiệu quả hơn trong tình trạng khẩn cấp (189).
Viện – Bạc, lúc này gồm Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, và vẫn còn có cả Trần Tiễn Thành, mặc dù quan họ Trần vốn chủ “hoà” này đang ốm vì bệnh và vì bị triều thần chỉ trích. Viện – Bạc tâu xin ra lệnh dụ cho kinh lược sứ Nguyễn Chính (Chánh) lập tức thông tư, bàn bạc việc quân với thống đốc Hoàng Tá Viêm để tuỳ cơ đánh chiếm lại thành Nam Định, “nghiêm sức cho thân sĩ các phủ huyện đoàn kết xã dân, canh giữ để cho chúng [:Pháp] chỉ giữ [được] tỉnh thành, không được lấn xuống, mới có thể tính dần được” (190) .
Mặc dù đang bệnh, vua Tự Đức bảo rằng: “Từ trước đến nay thân sĩ đã xin đoàn kết để ứng cứu, bảo vệ. Sao lúc ấy không tính ngay, cho chúng có thì giờ được voi đòi tiên, lan tràn khó tính, sĩ khí ngày càng tiêu tan hết? Nguyễn Chính đã cho chọn đất đóng quân để làm thanh thế cho quan tỉnh, nay cũng không được công trạng gì, phải giáng bốn cấp, lưu [nhiệm], phải lấy lại ngay tỉnh thành, để chuộc tội trước” (190) .
Khác với Bắc Kì “tả đạo”, “phù Lê” trước đây, ở thời điểm này, tinh thần đoàn kết dân tộc và yêu nước truyền thống đã được khơi dậy mạnh mẽ.
Năm trăm (500) quân kinh đô lại được lệnh hành quân ra Thanh Hoá, và đồng thời tỉnh ấy mộ thêm thổ dũng (lực lượng dân quân), tái nhập ngũ lính mộ cũ, khoảng sáu trăm rưỡi (650) viên (191). Nguyễn Chính cũng phái thêm vào Thanh Hoá ba trăm viên lính, đóng tại Tam Điệp, Nhân Sơn, Chính Đại (192). Tạ Hiện nghe thành Nam Định mất, liền xin về chiêu mộ thổ dũng để quyết đánh, chiếm lại, với chức vụ đề đốc (193), thay liệt sĩ Lê Văn Điếm.
Vẫn đang là tháng hai Nam lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi sáu, Quý mùi (1883)! Toàn thể các quân thứ và đa số nhân dân Bắc Kì đã quyết chiến để rửa nhục.
Cuối trung tuần tháng này, quân Pháp vượt sang sông Hồng, sấn vào chỗ đóng quân của ta ở Gia Lâm (194). Chúng thách thức, khiêu chiến. Hôm ấy, đúng ngày mười chín (27.03.1883), với tinh thần bừng bừng quyết chiến, tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản liền điều động, đốc thúc quân binh đến ngay tại Gia Lâm để trợ lực, kinh lược phó sứ Bùi Ân Niên cũng đem quân tiếp đến. Cả ba đội quân nổ súng, vung gươm với quyết tâm chiến thắng.
Quân Pháp phải rút lui trong hoảng loạn. Chúng quay về giữ Dốc Gạch, đem theo xác một tên quan ba, bốn tên lính Pháp tử thương, cùng sáu tên khác bị thương. Quân ta, sáu người không tránh khỏi bị thương tích (194).
Hôm sau, sáng ngày hai mươi (28.03.1883), với quân số được tăng viện, Pháp lại đến tấn công. Binh dõng, quân thứ Bắc Ninh quyết giữ những chỗ hiểm yếu, nấp bắn. Không thể tấn công nổi, quân Pháp lại rút. Trận này, phía Pháp chết chín tên, một tên khác bị thương. Quân ta cũng bị tổn thất: bị thương mười người lính, chết năm viên (194).
Chiều hôm ấy, độ giờ mùi (13 – 15 giờ), quân Pháp tiến thẳng lên đê sông Hồng, bắn loạn xạ. Binh dõng của ta liền đánh giáp lá cà. Trận đánh bằng võ thuật và dao ngắn rất dữ dội. Số bị thương và chết tương đương nhau, mỗi bên khoảng hai, ba chục người. Về sĩ quan, Pháp có một viên quan hai phải bị băng bó vết thương do dao ngắn và các thế võ. Phó đề đốc Trần Xuân Soạn cũng bị thương nhẹ. Trong trận ấy, không những đạo quân của Trương Quang Đản và tán lí Lương Quy Chính, đạo quân của Bùi Ân Niên tức tốc đến ứng cứu, các đạo quân khác của thương biện Nguyễn Cao, lãnh binh quan Hồ Văn Phấn cũng liền tiếp viện. Quân Pháp chống đỡ không nổi, liền hãi hùng rút quân xuống tàu binh, chạy về Đồn thuỷ Hà Nội (194).
Tin chiến thắng tại Bắc Ninh đã truyền nhanh một niềm phấn khởi khắp cả nước. Ở kinh đô Huế, những tập tâu báo tiệp bay vào làm nức lòng vua Tự Đức, hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cùng phần lớn đình thần và nhân dân.
Ngôi nhà vuông mới xây dựng xong, phía sau, bên trái Tả vu Điện Cần chánh, nơi chỉ có tứ trụ đại thần đến bàn luận việc cơ mật, và vài tham biện, tư vụ được tin cẩn, túc trực để phụ giúp, ghi chép, ngoài ra không một ai khác được ghé vào, kể cả những vị quan trợ lí hành chính thuộc Viện – Bạc. Sáng sớm hôm sau, tại đó, thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường và thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết đang đọc lại những bản tâu trình về ba trận thắng tại Gia Lâm, Dốc Gạch, triền đê sông Hồng thuộc tỉnh Bắc Ninh.
- Đúng như tin quân thám báo, quyền tuần vũ Hà Nội Vũ Nhự cho biết, bọn Pháp sẽ tấn công Bắc Ninh để chặn chân các quân thứ và quân binh tỉnh ấy cứu viện Nam Định, tập kích Đồn thuỷ. – Quan Bộ Binh nói –. Lẽ ra theo kế hoạch, khi bọn rợ Pháp tấn công thành Nam Định, Nguyễn Chính tiếp viện, phối hợp đánh ngay, và ngay lúc đó, quân tại Bắc Ninh sẽ tập kích hậu cứ Đồn thủy (rợ Pháp đã rút phần lớn quân đi đánh Nam Định). Nhưng bọn Pháp cũng ranh ma lắm. Một số quân của chúng từ Nam Định, sau khi chiếm được thành liền tức tốc quay về phối hợp với quân tại hậu cứ Đồn thuỷ để đánh cản quân ta tại Bắc Ninh.
- Ta kém chúng ở tốc độ hành quân! Cái nhược điểm của ta là ở chỗ hành quân bằng phương tiện ghe thuyền quá thô sơ, quân kị binh lại quá ít. – Quan Bộ Hộ phân tích –. Nhưng dẫu sao quân tỉnh Bắc Ninh và các quân thứ khác tại đó cũng ba lần đẩy lùi được giặc Pháp. Đó là ba lần chiến thắng rõ rệt. Bọn Pháp phải tháo chạy. Tôi nghĩ Bộ Binh cần khắc phục về nhược điểm hành quân chậm.
- Đúng vậy, quyết chiến, không thể không khắc phục nhược điểm ấy, và cả nhược điểm về vũ khí nữa. Về vũ khí, năm kia (Tân tị, 1881), Hoàng Tá Viêm đã sai Lưu Vĩnh Phúc sang Vân Nam mua một số súng đạn Âu Mỹ khá nhiều, lại từ tháng mười một năm ngoái (Nhâm ngọ, 1882), vua đã chuẩn cho “sai quan tỉnh Lạng Sơn gửi sang Hương Cảng hỏi mua hai trăm (200) cây súng Tây [dương], hai hòm viên đạn (giá hơn bốn trăm mười bốn [414] lạng bạc) để phòng dùng cho việc quân tỉnh ấy” (195) , trong đó có cung cấp cho các quân thứ Cao Bằng, Lạng Sơn của Lương Quy Chính, Nguyễn Cao, Trần Xuân Soạn…
- Còn nguyên nhân thắng lợi khác?
- Đó là có sự yểm trợ của quân Thanh, mặc dù quân Thanh chỉ kéo ra áp sát biên giới, mới đưa một số doanh sang Quán Ty (Hưng Hoá), sang các tỉnh miền núi tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng, và chưa nhúc nhích, động binh lần nào.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường gật đầu, lại nêu câu hỏi cho rõ vấn đề hơn:
- Dẫu vậy, ý quan Bộ Binh nói, cũng giúp quân ta tự tin hơn chăng?
- Không nên ỷ lại vào quân Thanh, nhưng yếu tố tự tin tăng cao hơn là vì có quân Thanh hậu bị, không thể phủ nhận được. – Thượng thư Tôn Thất Thuyết trả lời –. Không những tinh thần của các quan quân ở các tỉnh Bắc Kì phấn chấn lên, mà nhà vua, các quan tại triều cũng có chung sự phấn chấn đó (mặc dù xen lẫn chút âu lo). Tôi thấy rõ việc liên minh quân sự với nhà Thanh là một thắng lợi ngoại giao của quan Bộ Hộ và của vua tôi triều đình ta.
Thượng thư Nguyễn Văn Tường mỉm cười. Ông nói:
- Quan Bộ Binh quá khen! Thật ra, ngoại giao và quân sự không thể tách lìa nhau, và một khi phối hợp ăn khớp, sẽ nhân lên sức mạnh cho nhau. Từ khi tôi trực tiếp thành lập Cục Thuyền chính, liên minh quân sự, chính trị, ngoại giao với nhà Thanh qua liên hệ hợp đồng với Đường Đình Canh của Chiêu Thương cục, bằng vỏ bọc vận tải ấy (nhằm qua mắt bọn Pháp, các cố đạo), tôi đã thấy tình thế đã buộc triều đình chúng ta bước vào tình huống “cưỡi lưng cọp” rồi. Thế cưỡi hổ đã thành! Khả năng tốt nhất dự kiến xảy ra là lập được thế ngoại giao đối trọng: Đại Nam ta trung lập, đứng giữa hai lực mâu thuẫn; ta vẫn vững vì hai lực ấy sẽ phải cân bằng! Hoặc, khả năng gay go sẽ xảy đến: Giữa Đại Nam triều Nguyễn ta và Pháp chỉ còn một phen sống mái mà thôi.
- Tôi biết bọn Pháp vẫn còn sử dụng chiêu bài “phù Lê”. Ở Hà Nội, tên Henry Rivière vẫn nuôi một con đàn bà hậu duệ nhà Lê (196). – Thượng thư Tôn Thất Thuyết nói –. Và việc bọn Pháp lợi dụng giáo dân “tả đạo” vẫn là chiến lược lâu dài của chúng, nhưng chúng biết rút kinh nghiệm, lần này đã khôn khéo giấu mặt.
- Trở lại vấn đề là tinh thần quyết chiến đã lên cao. Ba trận đẩy lùi quân Pháp của Bắc Ninh, mặc dù có người không cho là thắng lợi cơ bản, dẫu sao, cũng là ba trận chiến thắng, tuy ở quy mô nhỏ. Tinh thần quyết chiến và chiến thắng ấy cũng xuất phát từ việc giặc Pháp lần này cố bức bách ta, ta lại liên minh được với quân Thanh.– Thượng thư Nguyễn Văn Tường từ tốn nói –. Tinh thần, ý chí chiến đấu không thể hô hào suông mà dấy lên được trong đầu óc, trong tâm trạng quan quân. Tinh thần, ý chí chiến đấu ấy là truyền thống nghìn đời nhưng phải có cơ sở là thực lực, tức là quyết chiến trên sức mạnh có thật. Vấn đề là Viện – Bạc chúng ta suy sâu nghĩ xa để kiến nghị lên nhà vua, làm sao cho vua tôi chúng ta thật sự “thiết thạch đồng tâm”, quyết một lòng vững bền như sắt đá. Ít ra, nhờ vậy, cũng buộc bọn Pháp phải tuân thủ “hoà” ước Giáp tuất 1874, không thể được voi đòi tiên, được đằng chân lân đằng đầu. Trước mắt, tôi nói mục tiêu trước mắt, ít ra là như vậy. Còn hiện nay, vẫn chưa thể tính đến việc khôi phục lại toàn bộ giang san từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau được. Phải buộc cho bằng được bọn Pháp tuân thủ “hoà” ước Giáp tuất 1874! Tôi lần này, ngoài các điều khoản khác, sẽ quyết buộc chúng phải thi hành điều khoản thứ mười (X) ở Nam Kì: Ta được mở trường dạy quốc học trong ấy…
- Tôi đang nghĩ đến những trận chiến thắng quân sự tiếp theo phải đạt cho được tại Bắc Kì. – Quan Bộ Binh Tôn Thất Thuyết nói –.
- Đúng như vậy.
Hai đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc cùng hội bàn kế hoạch quyết chiến trong những trận đánh sắp tới.
Vua Tự Đức dẫu đang ốm nặng với ung nhọt phía sau lưng (197) cũng không yên lòng buông lơi công việc. Nhà vua châu phê vào tập tâu của tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản và phó kinh lược sứ Bắc Kì Bùi Ân Niên: “Quan quân, binh dõng bị chết, đều cho thăng hàm, cấp tiền tuất và cho nhiêu ấm [con cháu được hưởng quyền lợi học tập, thăng bổ hoặc ban tặng chức sắc (thực quyền hoặc chỉ là danh xưng)]. Quan quân thứ, quan tỉnh các ngươi nên cố gắng nhiều hơn, một lòng, hết sức, giết bọn giặc, bắt tướng giặc, cốt cho nước ta được yên mà oai nước được mạnh” (198); “nên cố gắng hơn lên, đốc sức binh dũng, cốt phải đại thắng, cho chúng sợ không dám hành động” (199) ; các tỉnh khác, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, phải đóng cọc ở lòng sông, đánh đắm thuyền chở đầy đá để chặn tàu giặc Pháp tiến công (199); “một đạo Sơn Tây cũng nên hợp sức cố đánh, bày mưu đánh cho được, cốt chóng thành công cho đỡ lo nghĩ ngày đêm” (199); “Ninh Bình là chỗ cổ họng, quan hệ không phải là ít. Bọn Phan Đình Bình, các ngươi khéo dùng thổ dũng, dân binh, hết lòng phòng bị trước cho mười phần vững chắc…” (199); “còn ngoài ra, ai có mưu kế hay, [luyện] binh tinh nhuệ, đánh tất thắng, giữ thành tất vững, đều cho các quan quân thứ, quan tỉnh hết lòng mà làm…” (199) .
Như vậy, lệnh dụ quyết chiến đã được ban hành!
Quyết chiến!
Không còn cách nào khác!
Đó là con đường hào hùng nhất.

19

Tháng ba nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi sáu, Quý mùi (1883), việc tăng cường phòng thủ, chấn chỉnh binh lực càng được đẩy mạnh.
Súng lớn được bố trí thêm ở phía đông bắc kinh thành Huế. Quân biền binh vốn được điều động làm việc ở các sở thợ (công binh xưởng) đều được rút về để huấn luyện. Quân số ấy hơn một ngàn rưỡi (1.500) người (200).
Tại Quảng Trị, thân sĩ hăng hái mật tâu công việc chống đánh giặc Pháp (201). Triều đình phải theo sắc dụ bảo rằng, không nên hấp tấp.
Lại bố trí thêm hai mươi (20) cỗ súng đại bác, ba mươi (30) cỗ súng quá sơn ở đồn trước và đồn sau Lộ Châu (cửa Thuận An) (202).
Ở Bắc Kì, hai đại thần với quyền lực cao nhất là Hoàng Tá Viêm, Nguyễn Chính. Trước đây, sau khi Pháp thực thi mưu kế liền đánh chiếm Hà Nội, liền trao trả để làm sức ép hoãn binh, buộc ta thôi phòng thủ, Hoàng Tá Viêm là người đầu tiên và duy nhất dám cãi lệnh vua, khi nhà vua ban sắc dụ rút quân về Sơn Tây. Lần ấy, ông tâu về kinh: “Vạn phần đánh được cả!” (203) , ngầm trách lại vua và đình thần chủ “hoà”. Cũng lần ấy, thái tử thái bảo, kinh lược sứ Bắc Kì Nguyễn Chính cũng tâu về kinh: “Khiến cho giặc không dám trông thẳng!” (203). Nhưng trong thực tế chiến đấu, Nguyễn Chính đã hèn nhát! Nay, Nguyễn Chính không còn được giữ cờ tiết mao, đã bị giáng xuống hàm tán lí.
Hoàng Tá Viêm, nguyên thống đốc bị giáng xuống hàm tổng đốc, vẫn quyền giữ chức tiết chế thống lãnh toàn mặt trận Bắc Kì, cũng hưởng ứng sắc dụ quyết chiến. Lệnh dụ quyết chiến thật sự như mở cờ trong bụng, ông thật sự phấn khởi, mặc dù nhà vua còn trách cứ ông chậm tiếp viện, ứng cứu. Nguyễn Chính bị trách cứ nặng hơn, nhưng cũng có những biểu hiện hưởng ứng ý chí quyết chiến. Họ hưởng ứng lệnh dụ đã ban: “Bọn ngươi nên tính kĩ, làm [:phòng thủ, chiến đấu] cho thoả đáng, để hả lòng công phẫn, lừng lẫy uy thanh của nước” (203) .
Thống đốc Hoàng Tá Viêm cũng đã chiêu mộ được ba chục ngàn (30.000) dân quân, trong đó hơn ba ngàn bốn trăm (3.400) người đã được ông chỉ đạo huấn luyện và có kết quả giỏi (204). Tất nhiên, là tướng cầm quân, dạn dày kinh nghiệm, ông hiểu chỉ số người tập luyện giỏi mới chiến đấu tốt, và ngoài ra, lực lượng còn lại chỉ hỗ trợ, như tải thương, vận lương và tự giữ xóm làng. Điều đó, chứng tỏ nhân dân Bắc Kì đã tích cực hưởng ứng quyết lệnh chiến đấu chống Pháp, như truyền thống chống xâm lược nghìn xưa mà trong các bản dụ trước đây nhà vua không quên nhắc đến. Chẳng hạn, trong bản dụ trong tháng mười năm ngoái, Nhâm ngọ (1882): “Đại khái dân khí không yên, vì phong tục không chính, mà tiêm nhiễm đã lâu nên mới đến thế. Không thế, thì người đời xưa dùng để đánh quân Nguyên, quân Minh là dùng dân nào? Năm trước giặc Hải Dương quấy một tỉnh Nam Định, vì dân tốt, quan tốt, được đặc cách khen thưởng là dân nào?…” (205) .
Chỉ có một điều rất đáng tiếc, ấy là sự mâu thuẫn giữa thống đốc Hoàng Tá Viêm và phó kinh lược sứ Bắc Kì Bùi Ân Niên. Bùi Ân Niên những muốn được chuyên trách một đạo quân riêng để phối hợp với quân binh của Trương Quang Đản, vì giữa ông và thống đốc Hoàng Tá Viêm không có sự nhất trí trong việc vạch kế hoạch và tác chiến. Hoàng Tá Viêm mỉa mai, cho rằng Bùi Ân Niên am hiểu việc quân lắm, xin điều động Bùi Ân Niên về triều, giao quân lại cho ông (206). Vua suýt nghe theo lời tâu của thống đốc họ Hoàng! Ngay khi chưa có chỉ dụ triệu hồi Bùi Ân Niên, Hoàng Tá Viêm đã dùng quân lệnh buộc Bùi Ân Niên giao quân! Tham tán họ Bùi liền dâng sớ phản hồi, chê trách Hoàng Tá Viêm: “Giả sử quan thống đốc trước khi Nam Định chưa có việc, tiến ngay đến bức Hà Thành, khiến cho chúng trông chỗ nọ bỏ chỗ kia, không dám bừa bãi ở Nam Định, há không là việc tốt hơn ư? Lại cứ đóng ở Sơn Tây không tiến quân, cho nên chúng có thì giờ tính đánh Nam Định, sự thế thêm khó khăn…” (207). Bản sớ của Bùi Ân Niên còn vạch ra những điều khác, như tâu rằng Hoàng Tá Viêm toan rút quân thứ đóng tại Bắc Ninh lên Sơn Tây, trong khi Bắc Ninh đang bị Pháp quyết tâm đánh, lại chỉ chuyên nghe lời Lưu Vĩnh Phúc. Và cũng trong bản sớ ấy, Bùi Ân Niên còn tố cáo rằng, Hoàng Tá Viêm không nghĩ đến việc chung của Đất nước, sử dụng quyền lực để áp chế người dưới, khiến người dưới không làm được việc gì, lại ganh công với người dưới trong ba trận đẩy lùi quân Pháp tại Gia Lâm nữa (207)!
Viện – Bạc họp bàn, tâu lên vua. Dụ ban ra: “Đạo Sơn Tây binh tướng đã nhiều, mà đạo Bắc Ninh binh tướng hơi ít. [Bùi] Ân Niên cũng chưa thấy có việc gì kém, lại vẫn cho sung chức tham tán cai quản binh dũng đạo quân cũ, cùng với Trương Quang Đản cố gắng làm việc, cho xong việc định làm…” (207) . Và cuối cùng, sau cuộc tâu hặc lẫn nhau, đã được phân tích, để thanh thoả giữa hai người, thống đốc Hoàng Tá Viêm cũng vẫn được giữ quyền thống lãnh tiết chế như trước, tham tán Bùi Ân Niên vẫn ở cương vị cũ.
Đó là sự mất đoàn kết? Nhưng dẫu sao cũng thể hiện được phần nào tinh thần bình đẳng trong tâu hặc, phản hồi. Quan cấp trên khó lòng áp bức quan cấp dưới trong cơ chế bình đẳng trong tâu hặc, phản hồi ấy.
Cũng tháng ba ấy, bố chính tỉnh Quảng Tây nước Thanh là Từ Diên Húc lại ra cửa quan ải đóng quân để trấn áp (208). Tại Bắc Ninh, thống lãnh quân Thanh Hoàng Quế Lan đến đóng quân ở phủ Lạng Giang, quản đới Trần Đắc Dũng đóng quân ở huyện Yên Dũng, bang đới Diệp Phùng Xuân đóng bên tả ngạn sông Đáp Cầu, thống đốc Vy Hoà Lễ đóng quân ở Hùng Lãm, cùng nhau làm thanh thế ứng cứu. Quan quân thứ tỉnh Bắc Ninh Bùi Ân Niên bàn việc quân với Hoàng Quế Lan. Hoàng Quế Lan bảo: “Chưa tiếp được công văn thượng quốc [nhà Thanh], chưa dám hội lại làm việc”, “nếu chúng [:Pháp] có theo sông Nguyệt Đức đến, sẽ phái quân doanh đổi áo quần đánh giúp” . Chả là quân Thanh còn chờ kết quả cuộc đàm phán giữa Trung Hoa nhà Thanh với chính phủ Pháp!
Triều đình, nhất là hai đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã biết rõ tình hình ấy. Nhà vua cũng cùng triều thần và Viện – Bạc đi đến kết luận tạm thời: “Nước Thanh đã lo ngại sinh ra hiềm khích [với nước Pháp]… […] … Rút cục, việc ta, ta phải làm là chính. Vậy cho các ngươi, quan quân thứ, quan tỉnh khuyến khích tướng biền phải tự gắng sức, cho hết đạo bầy tôi, mà làm cho thế nước mạnh mẽ, chớ có chỉ trông cậy vào người… […] … [Tuy vậy, cứ] tuyên ngôn quân nước Thanh đến giúp cho nổi thanh thế” (209) .
Hai đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã nắm rõ tình hình ở Thiên Tân và phái bộ Phạm Thận Duật cũng như sứ thần Nguyễn [Thượng] Phiên ở Quảng Đông (Trung Hoa). Người nắm rõ vấn đề nhất, đó là thượng thư Nguyễn Văn Tường, vì ông chuyên trách mũi nhọn ngoại giao này.
“… Tháng hai [năm Quý mùi, 1883, trước thời điểm này một tháng]… bọn [Phạm] Thận Duật đến Thiên Tân thì nước Pháp đã có thư đến, nói không chịu điều đình, và vin lấy cớ hoà ước năm Giáp tuất [1874] có câu: “Nước Đại Nam có quyền tự chủ, không phải theo phục nước nào”, [để] không cho nước Thanh nhận nước ta làm thuộc quốc. [Pháp] lại rút sứ [thần] Bảo Hải [:Bourée] về, mà cho Lý Đức Cố [:Tricou] sang thay…” (210) .
Hướng vận động ngoại giao đối trọng ấy đang ở mức chưa thành công. Đại thần nhà Thanh Lý Hồng Chương vẫn tiếp tục thương thuyết cùng sứ thần mới của nước Pháp, ấy là viên quan văn Tricou.
Bởi thế, lực lượng quân Thanh do Hoàng Quế Lan thống lãnh tuy đã sang nước ta từ tháng chín nguyệt lịch năm ngoái (Nhâm ngọ, 1882) đến nay, vẫn chưa động tĩnh gì! Thượng thư Nguyễn Văn Tường hết sức lo ngại, nhất là trong lúc đó, Pháp càng có khuynh hướng chuyển quân thêm vào Bắc Kì. Thượng thư Tôn Thất Thuyết cũng cùng chung ý nghĩ lo ngại ấy.

20

Tình hình bên ngoài nước và trên mặt trận là thế, tình hình nội bộ cũng không phải không phức tạp, đau lòng.
Tháng ba nguyệt lịch Quý mùi (1883), nhà vua vẫn chưa có dấu hiệu khỏi bệnh. Hồng Sâm đã được phái sang Trung Hoa để tìm rước thầy thuốc giỏi, bởi các ngự y cũng như các lương y trong nước ta đều đã bó tay! Đại thần quản lí sự vụ Bộ Binh Trần Tiễn Thành từ đầu năm Quý mùi (1883) đến nay cũng đã mấy lần cáo ốm, nằm chữa bệnh ở công thự riêng trong khuôn viên Bộ Binh. Việc Trần Tiễn Thành bị chê trách rất nhiều là một trong những nguyên nhân khiến ông ta cáo ốm, ngoài căn bệnh lị, một bệnh mạn tính, kinh niên về đường ruột.
“Năm thứ ba mươi sáu (1883), [Trần] Tiễn Thành vì già ốm tâu nói: “Bệnh tình của thần liên miên ngày tháng, xin trả hạn để chữa thuốc đã đến hai, ba lần, gần đây lại phát, tăng giảm không thường, liệu không phải hàng tuần đã khỏi… […] … Vả công thự không phải là nơi dưỡng bệnh, nằm lâu sợ người ta nói. Nếu tạm về nhà, thời xa cách việc cơ mật, lòng rất không yên, đương lúc sự cớ ấy vẫn thấy nhà vua quên ăn trễ ngủ. Thần, tấm thân dẫu mắc bệnh, bụng thường lo giấu, còn một hơi thở cũng không dám chút trễ nãi… […] … Chỉ vì thần đã tới niên lệ, vừa gặp việc cơ mật bề bộn, chưa dám viện lệ xin [về nghỉ hưu], thời kẻ chê [là] người luyến sạn (sách Tấn thư: ngựa hèn còn luyến hột đậu ở chuồng) có ngại cho người hiền; lại nhân vừa nghỉ bệnh, thời người cho là thấy [thời thế] khó, thoái thác cáo ốm. Chúng khẩu [:miệng lắm người] còn nóng hổi chồng chất bời bời những lời chê bai. Thần đương ốm trong tâm rất là đau khổ… […] … Tâm của thần, bệnh của thần bậc đại thần ở triều đều biết rõ đã lâu. Thần lòng lại hỏi lòng, duy có mặc [kệ] họ, mình chỉ một niềm thôi… […] …” (211) .
Vua Tự Đức đã châu phê vào tờ sớ:
“Bệnh của khanh là lão bệnh. Ta đã hỏi thầy thuốc, họ nói: “không ngại”. Vậy cứ yên tâm ở thự, đợi khỏi, vào chầu nghe việc cơ mật, bất tất phải nghỉ hạn ở ngoài, xa cách bất tiện” (211) .
Đối với thượng thư Nguyễn Văn Tường, sau Vũ Trọng Bình, chính Trần Tiễn Thành là người không phải không có ân nghĩa với ông.
“Năm thứ hai mươi sáu (1873), Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình kế tiếp nhau thất thủ. Khi Nguyễn Văn Tường tới Hà Nội giảng giải thu về bốn tỉnh, vua cho Văn Tường là do Trần Tiễn Thành đề cử lên mới được biết, xuống dụ rằng: “[Nguyễn] Văn Tường cùng với trẫm được tri ngộ, dẫu do từ khi làm huyện lệnh ở Thành Hoá mà mới biết tiếng thôi, nhưng phần nhiều do Trần Tiễn Thành cử ra, nhân đó mới dần tiến lên. Nếu cho là vô tri, theo lệ sống lâu nên lão, thời truy nguyên ra, việc thưởng nên thôi ư! Vậy thưởng [từ] thụ hiệp biện, [được thăng] tiến thự Văn minh điện đại học sĩ, còn hàm vẫn như cũ. Đó là [do] biết tiến [cử] người hiền nên được thượng thưởng”. Khi vào triều kiến thường được ưu lễ, gọi là Trần khanh mà không gọi tên” (212) .
Nhưng thật sự chính kiến hai người vẫn khác nhau xa, và càng lúc càng khác. Trần Tiễn Thành chỉ chuyên một đường lối chủ “hoà”, dần dần buông xuôi, những năm về sau này, lại gần như đầu hàng, thoả hiệp. Nguyễn Văn Tường chỉ xem hoà là cơ nghi và hoà phải đi đôi với thủ để cuối cùng phải chiến.
Quả thật như thế, trong những năm về sau gần đây, tình hình không thể “hoà” được nữa, nhưng Trần Tiễn Thành vẫn cứ “hoà”! Mâu thuẫn nẩy sinh trong tâm trạng đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường là một bên, việc hệ trọng mất còn của Đất nước, và một bên khác, ấy là ân nghĩa tiến cử cũ (mặc dù Trần Tiễn Thành tự nguyện tiến cử theo lệnh dụ của vua, theo phương châm “tiến cử người hiền, sẽ được thưởng hậu; che giấu người hiền, sẽ bị giết”) ! Vận mệnh Tổ quốc và chút ân nghĩa tiến cử cũ: Bên nào nặng? Bên nào nhẹ? Đó là chưa đặt lên bàn cân việc Trần Tiễn Thành lại nhận sự tác động bởi De Champeaux để đẩy Nguyễn Văn Tường khỏi Nha Thương bạc…
Triều thần, thời điểm lịch sử này, không ngớt chỉ trích đường lối chủ “hoà” của Trần Tiễn Thành, nhất là quá trình hơn mười năm đứng đầu Bộ Binh của một Đất nước đang chống ngoại xâm, ông ta lại để quân binh trì trệ, vũ khí lạc hậu, đến nỗi vua cũng nhiều lần trách cứ! Thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết luôn chỉ trích Trần Tiễn Thành: Với quyền lực nắm trong tay, ở vị trí đại thần số một, chỉ dưới mỗi một mình vua, lại được vua Tự Đức quá tin cậy đến mức khó hiểu, Trần Tiễn Thành muốn khuynh loát tất cả, nhưng ông ta lại để tình trạng Bộ Binh như thế là không thể tha thứ được! Nếu không có thượng thư Bộ Hộ sung đại thần Viện – Bạc, một người có uy tín và ảnh hưởng nhất trong triều thần, thì tình trạng Bộ Binh còn suy bại đến mức nào! Ý kiến ở Viện – Bạc, ở các cuộc đình nghị là ý kiến chung về lãnh đạo, về chủ trương, chính sách, về cách giải quyết các trường hợp cụ thể khó giải quyết ở cấp tỉnh, huyện, nhưng trực tiếp nắm giữ, thực thi, đốc suất công việc Bộ Binh, Trần Tiễn Thành không thể đổ lỗi cho ai khác!
Rõ ràng không thể không nẩy sinh mâu thuẫn, và mâu thuẫn không thể không bị tình thế đẩy đến đỉnh điểm của nó! Biết làm thế nào được! Không có một tình huống nào thật sự hoàn toàn thuận lợi, nữa là ở thời đoạn lịch sử bi tráng này!

21

Tháng ba nguyệt lịch năm Tự Đức thứ ba mươi sáu, Quý mùi (1883), tình thế lại im ắng trong căng thẳng, cường độ căng thẳng mỗi lúc mỗi tăng lên. Nắng mùa hè vẫn sôi bỏng trong không khí.
Viện – Bạc và nhà vua không thể không dùng một từ xem ra còn nhẹ nhàng, nếu so với từ “phản quốc” đích đáng, để giành cho nhân cách, tâm địa của linh mục xứ Phát Diệm, Ninh Bình Trần Lục (213), hay thường gọi là cha Sáu, cụ Sáu. Y là một cốc nước bẩn nhưng vẫn phần nào vẫn còn là nước. Lần này, y rặt là phản quốc. Linh mục Trần Lục ấy đệ thư đến quan tỉnh Thanh Hoá, xin theo ý phái viên Pháp bãi bỏ tuần ti ở cửa tuần Chính Đại! Chả là trong thời gian Pháp bộc lộ dã tâm xâm lược Bắc Kì lần thứ hai, và tên Nguyễn Hữu Độ tấu trình theo ý Pháp bằng giọng lưỡi quan tâm đến việc nước một cách giả dối, do đó triều đình ít nhiều nhân nhượng cho triệt bỏ một số tuần ti trong phạm vi Bắc Kì. Pháp vốn muốn những tuần ti của ta không còn tồn tại để chúng tha hồ thao túng về thương mại và tự tiện thu thuế thương chính. Nay Trần Lục lại muốn lấn sang Trung Kì cho thực dân Pháp. Lệnh dụ vạch mặt linh mục Trần Lục phải ban ra: “Tỉnh Thanh Hoá không thuộc về Bắc Kì, đấy là Trần Lục nịnh hót mà chỉ [bày cho Pháp]. [Trẫm] sai [Phan] Đình Bình bắt Trần Lục nói với phái viên nước Pháp phải thôi” (213) .
Sự kiện vẫn còn gây xáo động tình hình Bắc Kì trong thời điểm căng thẳng này, đó là việc quân Thanh đưa ”quân sang nhưng không động tĩnh”. “[Đường] Cảnh Tùng tháng chạp năm ngoái, tự kinh [đô] về Hải Phòng, lại đi [đường] bộ đến các tỉnh Bắc Kì, tra xét tình hình biên giới, đến nay cáo từ về nước” (214) . Theo lời tâu của thống đốc Hoàng Tá Viêm, khi với y “cùng nhau bàn luận, thấy có nghĩa phẫn lắm, bàn việc quân rất là có lí, lại thêm Lưu Vĩnh Phúc là người cùng làng với viên ấy, rất là kính trọng. Nếu được viên ấy ở lại đấy, tự khắc mọi việc làm chóng xong” . Về “sau triều đình nước Thanh chuẩn y cho” Đường Cảnh Tùng phụ giúp cho Hoàng Tá Viêm (214). Nhưng thật tâm, Viện – Bạc và nhà vua không tin cậy vào tình hữu nghị trong sáng, “nghĩa phẫn” của họ Đường, cũng như Từ Diên Húc, vì hành tung của họ trên nước ta, mặc dù cũng chưa thấy có biểu hiện gì là lộng hành, xâm lược. Có người bấy giờ đã nói: Chính tiến sĩ Đường Cảnh Tùng đã bí mật bàn với Lưu Vĩnh Phúc, khuyên tướng Cờ Đen họ Lưu nên nhân cơ hội Đại Nam suy trầm này mà ám sát Hoàng Tá Viêm, khởi binh, và lên ngôi An Nam quốc vương! Lưu khẳng khái từ chối đề nghị của Đường Cảnh Tùng (215)! Đấy là sự thật hay kế li gián? Không rõ! Kinh nghiệm lịch sử mấy nghìn năm nay cho thấy đã nhiều lần quân liên minh cứu viện bỗng lộ mặt xâm lược. Tuy nhiên, lần này chưa rõ. Triều đình Đại Nam ta chưa biết đến tập sớ của tổng đốc Quảng Đông Trương Thụ Thanh đệ trình lên vua Quang Tự nhà Thanh hồi tháng bảy nguyệt lịch Nhâm ngọ (1882) (140)! Cũng như hai thượng thư Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, các quan quân thứ, quan tỉnh Bắc Kì đều nghĩ: Giá như triều đình nhà Thanh cho ta mượn quân có trang bị, tiếp viện súng đạn (họ trao hết cho Hoàng Tá Viêm, cho các tướng Đại Nam ta chỉ huy số quân Thanh đó, với quân luật triều Thanh), thì hiệu quả hơn, và ta yên tâm biết mấy! Nghĩ là nghĩ vậy, ai cũng biết đây là một thế trận buộc phải chấp nhận vận dụng vào thực tế, một khi đã gần như bế tắc. Nếu bị tình thế đẩy đến cùng, ta sẽ chủ động cho thế trận liên minh, đối trọng ấy trở thành “toạ sơn quan song hổ đấu” !…
Trong khi đó, kho gạo ở kinh đô chưa thật thừa thãi để dự bị chiến tranh, nên Bộ Hộ của thượng thư Nguyễn Văn Tường đành xin cấp tiền thay vì tiêu chuẩn gạo lương cho quan chức, hoàng thân, tôn thất (216).
Tháng tư Quý mùi (1883) lại đến.
Ở kinh đô Huế, “Nha Hải phòng kinh kì tâu xin cắm liền hàng rào bằng gỗ và lấp bằng sọt đá ở cửa hàng rào Lộ Châu” (217) để đề phòng Pháp tấn công vào trung tâm thần kinh của Đất nước.
Ở Bắc Kì, hai tên tướng phỉ, Phạm Văn Khoả và Nguyễn Văn Câu, người huyện Đông Anh, tỉnh Bắc Ninh bị sa lưới. Với tội phản quốc, câu kết bè lũ, tự xưng ngũ quân đại nguyên soái, điệu bát, lại cướp của, dán bích chương ở các xã thôn, tống tiền và đòi nộp thuốc súng, đạn dược trước đây, nay chúng bị bắt được, không thể tránh khỏi tử hình (218). Đó là bọn phỉ quấy rối, nổi loạn thật sự, không hề đụng đến một chiếc lông chân của bọn Pháp viễn chinh, cố đạo thực dân mà chỉ cướp bóc nhân dân, và nhắm đánh vào quan quân triều đình. Cùng với chiến công dẹp phỉ ấy của tỉnh Bắc Ninh, một tướng phỉ Tàu khác, tên là Dương Đại Gia Hoả, bị quân Thanh bắn rớt từ sườn núi xuống vực (219).
Công việc dẹp phỉ vẫn còn phải tốn ít nhiều tâm sức nhưng không nghiêm trọng như những năm giặc Cờ, thổ phỉ tràn lan về trước. Thống đốc Hoàng Tá Viêm dâng sớ xin khoan hồng cho tù phạm Hưng Hoá để giúp chúng cải tà quy chính, sử dụng họ vào việc tiễu phỉ. Vua Tự Đức dẫu đang bệnh, vẫn châu phê: “Quân cảm tử, phần nhiều ở trong tù phạm. [Hãy] chọn lấy kẻ dũng cảm. [Vấn đề] chỉ ở tướng khéo khuyên dùng mà thôi” (220) .
Bắc Kì, cái nôi sinh tụ đầu tiên của dân tộc ta, nơi mỗi tấc đất đều ghi những chiến công chống ngoại xâm oanh liệt! Chính những người dân Nam Đàng Ngoài, Bắc Đàng Trong cũng mang dòng máu quật cường ấy tiến vào mở đất vào phương nam. Thế mà, sau hai trăm năm chia cắt thời Trịnh – Nguyễn, và kể xa hơn, sau mấy trăm năm, nói như vua Tự Đức, là “vì phong tục không chính, mà tiêm nhiễm đã lâu nên mới đến thế. Không thế, thì người đời xưa dùng để đánh quân Nguyên, quân Minh là dùng dân nào?” (205). Tiêm nhiễm phong tục nào vậy? Hãy hỏi linh mục Trần Lục và những tên tướng phỉ như Tạ Văn Phụng, Hồ Văn Vạn, những Tịch, Trận, Khoả, Câu và những tên giặc Cờ, giặc trốn nước Thanh, thuỷ khấu cướp bóc theo mùa, hải tặc các quốc tịch…
“Tả đạo”, phỉ ta, phỉ Tàu cùng nguy cơ đói kém khá kinh niên, cứ trở đi, trở lại, là những gì tạo nên một phần không khí căng thẳng ở Bắc Kì và cả nước. Nhưng dẫu sao, nguy cơ giặc Pháp mới là trực tiếp và nguy hiểm nhất. Phần lớn nhân dân Bắc Kì đang sục sôi căm uất. Không chỉ ba vạn người dân mà gấp mười lần như thế đang sẵn sàng hỗ trợ quan quân triều đình để quyết chiến với Pháp. Nhưng lạ thay, hẳn do hậu quả hai trăm năm chia cắt và “phong tục” kia chi phối, nên chưa thấy những lực lượng dân quân, hương binh tự khởi phát đánh Pháp, trong thời đoạn sắc dụ đã ban ra: “Quan quân thứ, quan tỉnh các ngươi nên cố gắng nhiều hơn, một lòng, hết sức, giết bọn giặc, bắt tướng giặc, cốt cho nước ta được yên mà oai nước được mạnh”; “nên cố gắng hơn lên, đốc sức binh dũng, cốt phải đại thắng, cho chúng sợ không dám hành động”; “một đạo Sơn Tây cũng nên hợp sức cố đánh, bày mưu đánh cho được, cốt chóng thành công cho đỡ lo nghĩ ngày đêm”; “Ninh Bình là chỗ cổ họng, quan hệ không phải là ít,… […] …, các ngươi khéo dùng thổ dũng, dân binh, hết lòng phòng bị trước cho mười phần vững chắc…”; “còn ngoài ra, ai có mưu kế hay, [luyện] binh tinh nhuệ, đánh tất thắng, giữ thành tất vững, đều cho các quan quân thứ, quan tỉnh hết lòng mà làm…” (199) .
Trong lúc đó, cũng tháng tư Quý mùi (1883), tên nhà văn khá nổi tiếng ở nước Pháp, đang lộ nguyên hình là một tên xâm lược tàn ác và đốn mạt, với chức vụ cai quản lực lượng sư đoàn thuỷ binh viễn chinh Pháp, tên là Vy Ê hay Lý Hoa Lợi (Henry Rivière), “uỷ phái viên đem bán gạo chứa ở Cục Chiêu thương Hải Dương và thu các thuế xuất nhập cảng, thuế thuốc phiện và gạo” (221) ! Bọn thực dân Pháp ở “tàu Pháp kiểm soát, đuổi phái viên [cuả ta], ngồi thu thuế quan Mễ Sở, tỉnh Hưng Yên” (222) !
Henry Rivière và bọn Pháp viễn chinh ngang ngược đến thế là cùng!

22

Trung tuần tháng tư Nam lịch, Quý mùi (1883), vào lúc sáng sớm ngày mười ba (19.05.1883), Henry Rivière liền bí mật ra lệnh xuất quân sau khi đã bí mật ra lệnh cho hậu cần phân phát khẩu phần có thịt tươi và rượu cho quân viễn chinh Pháp (223). Với thịt tươi và những li rượu nồng độ cao, bọn lính hăng máu hẳn lên. Chúng nai nịt, mang súng đạn cùng sư đoàn trưởng thuỷ quân lục chiến Henry Rivière hành quân thật im lặng về phía phủ Hoài Đức, nơi các quân thứ Sơn Tây và đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc đã kéo về trấn đóng mấy hôm rồi. Henry Rivière rất căm hận thống đốc họ Hoàng và quyết lần này sẽ lấy đầu họ Lưu để trả thù cho Françis Garnier, một tên đại uý nhãi nhép vốn chẳng ra gì, nhưng nhờ sự tuyên truyền, y trở thành anh hùng ở Pháp!
Trong bóng tối chưa hé một tia nắng hừng đông, lượng rượu cồn đổ vào người (hẳn có thêm chất kích động) khiến bọn lính Pháp thấy ngứa ngáy ở ngón tay bóp cò súng. Chúng đang thèm nghe tiếng nổ, thèm thấy máu trào và những thây người ngã xuống, bất kể là dân lành hay lính triều đình Đại Nam.
Henry Rivière không uống rượu, nhưng y căm giận vì những lời nhục mạ, sỉ vả mà những toán quân của Lưu Vĩnh Phúc tạt vào hai chiếc tai của y từ hôm trước. Bấy giờ, y cố bình tĩnh nén giận, không vội kéo quân ra như Françis Garnier. Henry Rivière đã có trong tay một bọn “tả đạo” người bản xứ, vốn được giám mục Puginier bí mật giới thiệu một cách tin cẩn. Y bình tĩnh cho bọn ấy đi do thám tình hình đóng quân của quân ta. Và y vạch kế hoạch đánh úp.
Hôm nay, Henry Rivière tự nhủ, như đã ra quân lệnh hồi khuya, phải tiêu diệt quân Đại Nam khiêu khích đang ngủ vùi ở phủ Hoài Đức.
Khi chưa đến phủ Hoài Đức, mới vừa ra khỏi Cầu Giấy một đoạn, ở phía tây, ngoài cửa ô La Thành, y hoảng hốt khi nghe tiếng hô xung phong phía sau lưng, và từ trong những đám cỏ, sau gốc cây, bờ ruộng hai bên khúc đường mới bước qua, bóng lính dưới quyền chỉ huy của Lưu Vĩnh Phúc ào tới, nổ súng bắn chéo và xông vào đánh giáp lá cà.
Những toán quân gồm sáu trăm (600) tên Pháp cũng phản phục kích một cách có bài bản, chứng tỏ chúng là một đoàn quân đã được huấn luyện kĩ càng và dạn dày chiến trận.
Cánh bên phía trái, quân đoàn luyện của tướng họ Lưu do Dương Trứ Ân chỉ huy. Nhưng tiếc thay, sau khoảng mấy chục phút đầu vùng dậy đánh mãnh liệt, bắn hạ và chém được nhiều tên địch, Dương Trứ Ân bị trúng thương, hi sinh ngay tại trận địa (223). Cánh quân đoàn luyện này vẫn tiếp tục chiến đấu. Giặc ở xa, họ nổ súng. Giặc ở gần hoặc chúng tiến đến gần, họ vung đao, kiếm và dao ngắn.
Cánh quân phía bên phải, do Ngô Phượng Điển chỉ huy. Sau loạt súng phối hợp với cánh quân bên trái, bắn chéo vào giặc Pháp, thấy chúng ngã xuống vì trúng đạn và ngã xuống bò toài trên mặt đất để tránh đạn, rồi chúng nhanh chóng phản phục kích bằng những loạt súng liên thanh, Ngô Phượng Điển lập tức ra hiệu lệnh cho toán quân tiền khu xung kích. Những toán quân còn lại vẫn mai phục, bắn yểm trợ cho toán xung kích kia. Lúc này, mặt trời đã sáng rõ. Ông lại cầm súng ngắn đứng dậy, phất tay cho đợt tấn công thứ hai. Ông khom người chạy bên viên lính thổi kèn thúc quân kiểu Anh. Bỗng Ngô Phượng Điển ôm lấy bắp chân. Máu tứa ra ở các kẽ ngón tay. Ông ngã xuống. Thấy viên chỉ huy họ Ngô đã trúng thương, hai cánh quân, cũng ít nhiều đã bị thương tổn, vội lùi lại cố thủ (223).
Đang nằm trên một nóc nhà ngói quan sát trận địa, Lưu Vĩnh Phúc liền phất tay và nhảy xuống. Đã được mật bàn trước, Hoàng Thủ Trung cũng lập tức ra hiệu lệnh cho đội quân của ông (223).
Hai cánh quân do họ Lưu, họ Hoàng trực tiếp chỉ huy cùng hai ông xông ra giữa trận đạn của giặc Pháp, với các thế bò, toài, đi khom tuỳ theo địa hình, địa vật. Những hào giao thông đã được đào sẵn. Những đụn rơm, gốc cây, ụ đất đã bố trí sẵn. Những luống khoai, vồng sắn cũng được tận dụng. Lưu Vĩnh Phúc đã cùng thống đốc Hoàng Tá Viêm đã nghiên cứu kĩ trận địa mai phục.
Henry Rivière và sáu trăm tên Pháp bỏ chạy tán loạn. Đội kị binh lập tức đuổi theo.
Những tên lính Pháp mắt xanh mũi lõ ngã xuống dưới những phát súng nổ từ đằng sau lưng chúng hay bởi những thanh đại đao, mã tấu chém tới lúc chúng đang bỏ chạy. Henry Rivière đã nhanh tay lột quân hàm đại tá để lẩn vào bọn lính Pháp, nhưng Lưu Vĩnh Phúc đã chú ý đến y từ lâu với một đặc điểm trên người y mà họ Lưu cố nhớ.
Vó ngựa của Lưu Vĩnh Phúc chồm lên con ngựa Henry Rivière đang cỡi. Tiếng ngựa của Henry Rivière hí hãi hùng, bỏ chạy, để cái xác không đầu ngã xuống cách chỗ chiếc đầu tóc râu vàng hoe đã rơi khoảng mươi thước.
Ngỡ như cái chết của Françis Garnier được lặp lại, nhưng xem ra, cái chết đáng đời của Henry Rivière vẫn ngoạn mục hơn.
Ngoài ra, một quan hai, một quan ba Pháp cũng bỏ mạng tại trận cùng hai mươi (20) tên lính Pháp khác, và sáu mươi (60) tên Pháp khác nữa bị trọng thương cùng nhiều tên bị thương nhẹ. Những tên Pháp lem luốc bụi đất, máu me, khói thuốc súng kéo nhau, bồng bế, khiêng vác nhau bỏ chạy một cách thê thảm (223)…
Thống đốc Hoàng Tá Viêm trầm tĩnh cười thật hả dạ khi quan sát từ đầu đến cuối cuộc phục kích lớn. Ông đã quyết tâm thực hiện lệnh dụ “một lòng, hết sức, giết bọn giặc, bắt tướng giặc, cốt cho nước ta được yên mà oai nước được mạnh” ! Và Lưu Vĩnh Phúc vẫn là một dũng tướng, một “hiệp sĩ phi chính phủ, hành đạo trừ tà” . Ông chỉ cãi lệnh dụ là không ra lệnh bắt sống Henry Rivière, mà đã bảo Lưu Vĩnh Phúc phải chém ngay, giữ đầu và xác của hắn làm “con tin”.
Tin báo tiệp bay nhanh tên lưng ngựa trạm để vào kinh đô Huế.
Cả triều đình, thần dân và nhà vua phấn khởi như chưa bao giờ phấn khởi đến thế!
Sắc dụ ban thưởng tức khắc: Liệt sĩ tử trận Dương Trứ Ân được truy phong tuyên uý phó sứ, gia tặng hàm lãnh binh quan; Lưu Vĩnh Phúc thăng thụ đề đốc với áo mão chánh nhị phẩm; Hoàng Thủ Trung thăng thụ tuyên uý sứ với bậc hàm tòng tứ phẩm, lãnh chức lãnh binh quan; Ngô Phượng Điển được thăng chính thức tuyên uý phó sứ lãnh chức phó lãnh binh quan với sâm quế thuốc thang điều trị; và tất cả quân binh, kể cả thống đốc Hoàng Tá Viêm đều được thăng chức, thưởng tiền, hoặc khai phục chức tước bị cách trước đó. Nhưng không có vinh quang nào bằng là họ tự biết chiến công này sẽ mãi mãi được ghi lại trong sử sách, và trước mắt, khiến kẻ thù là giặc Pháp, kể cả bọn thực dân đầu não, chóp bu tận nước Pháp, phải thêm một phen rúng động, hãi hùng và hằn học, thù hận một cách vô lí, vô đạo (223).
Bấy giờ, tại kinh đô Huế, Sứ quán Pháp đã đóng cửa, vắng hoe, im lìm. Lãnh sự Pháp tại Hà Nội đệ thư đến quân thứ Sơn Tây, xin trao trả xác chưởng thuỷ sư Henry Rivière và hai tên quan hai, quan ba Pháp. Tập tâu vào kinh, vua Tự Đức bảo: “Không cho! [Hãy] sai quân thứ Sơn Tây tạm chôn, đợi xét” (223) .

Hết tệp 5 truyện kí 9

Viết đến dòng chữ này vào lúc 16 giờ 26 phút,
ngày 29.12.2002 (26.11 Nh. ngọ, HB.2),
tại thành phố Hồ Chí Minh
.

TRẦN XUÂN AN


(188) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 177.

(189) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 177.

(190) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 178.

(191) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 178.

(192) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 192.

(193) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 179.

(194) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 180 – 181.

(195) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 159.

(196) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 533.

(197) Y. Tsuboi trích dẫn Bùi Quang Tung, NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 300. Không rõ Bùi Quang Tung căn cứ vào tư liệu nào, và tư liệu ấy có đáng được tin cậy hay không, để viết như thế. Dẫu sao, tôi vẫn xem chi tiết về bệnh và cái chết vua Tự Đức, theo Bùi Quang Tung, như chất liệu tiểu thuyết, có thể sử dụng được ở chừng mức nào đó trong thể truyện kí lịch sử, với chú thích rõ ràng, cẩn trọng (mạn phép xem đây là trường hợp đơn cử).

(198) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 181.

(199) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 181 – 182.

(200) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 182.

(201) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 183.

(202) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 183.

(203) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 182 – 183.

(204) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 184.

(205) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 153 – 154.

(206) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 185.

(207) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 185 – 186.

(208) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 187.

(209) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 187 – 188.

(210) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 161 – 162.

(211) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 169 – 170.

(212) ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 167.

(213) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 188.

(214) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 190.

(215) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 402 – 403.

(216) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 189 – 190.

(217) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 192.

(218) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 190.

(219) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 190 – 191.

(220) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 191.

(221) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 191.

(222) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 192.

(223) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 192 – 194. Xem thêm: CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 404 – 409.

Chú thích xong lúc 08 giờ ngày 14.02.2002
(13.01 Quý mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.2])
.

TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 5
(phân đoạn 5, truyện kí 9)

Xin xem tiếp tệp 6
(phân đoạn 6, truyện kí 9)
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III A 4)

Tệp 4 – Tập III Blog A
(PHÂN ĐOẠN 4 TRUYỆN KÍ THỨ 9)

TRẦN XUÂN AN

BẮC KÌ, TƯỞNG CHỪNG LẶP LẠI


Truyện kí thứ chín
(phân đoạn 4)

12

Với sự hỗ trợ của đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường, việc tăng cường phòng thủ vẫn được đẩy mạnh. Thượng thư Tôn Thất Thuyết tâu xin đưa hai mươi (20) cỗ súng về đồn Trấn Hải ở cửa biển Thuận An (Thừa Thiên) (133), đặt sáu cỗ súng ở Tư Hiền (cũng thuộc tỉnh Thừa Thiên) và luyện binh ở vụng biển ấy (133), đồng thời tăng cường các võ quan như Nguyễn Hanh, Lê Viết Diễn, Nguyễn Văn Thi, Ngô Đạt và cả cử nhân văn làm tham biện là Cao Hữu Sung (133). Ngoài ra, khởi công xây dựng Sơn phòng Hà Tĩnh (134). Vua Tự Đức đồng ý.
Tháng bảy Nam lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi lăm, Nhâm ngọ (1882) ấy, trong những ngày đầu tháng, Quảng Trị quê nhà của thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường lại bị thiên tai bão tố (135). Tất nhiên, không hề thiên vị, ông chiểu theo định lệ chẩn cấp để bảo các quan thuộc viên đốc thúc quan tỉnh lập danh sách. Thúc giục đến hai, ba lần mới làm xong danh sách! Các quan tỉnh phải bị cách chức nhưng cho lưu dụng (135)!
Bấy giờ, có những sự lạ! Triều đình phát hiện và trợ cấp cho thần đồng tám tuổi Nguyễn Văn Kỳ ở tỉnh Hưng Yên (về sau Pháp bắt về nước của chúng!) (136). Cùng với sự lạ ấy, biển Bình Thuận bỗng vang lên dưới lòng biển tiếng vang như súng rền, suốt cả ngày đêm, vang đến tận Bắc Kì (137)! Sau đó khoảng một tháng, sao trên trời sa xuống, tiếng thiên thạch va chạm mặt đất vang như sấm động (138), rồi lại xuất hiện sao phướn, một dải sao dài như tấm lụa, phía dưới màu đỏ, phía trên sắc trắng, kéo dài đến bốn tháng trên nền trời đêm (139). Nhân gian bấy giờ vẫn giải thích các hiện tượng tự nhiên theo cách nghĩ thần bí của mình, cố tưởng tượng ra mối liên quan giữa “trời – đất – người” .
Quân Thanh ở Lưỡng Quảng và Vân Nam đã hành quân ra áp sát biên giới, trải dài trên nhiều vùng đất Trung Hoa kề cận nhiều tỉnh nước ta, ngay từ khi nghe tin Hà Nội thất thủ vào đầu tháng ba (140). Đến nay, đúng như ước định của thượng thư Nguyễn Văn Tường và triều đình, tháng bảy, trước khi sao phướn trắng đỏ xuất hiện, tướng nhà Thanh tại Vân Nam, là Tạ Kính Bưu, lại đem trước ba (03) doanh quân sang Quán Ty ở tỉnh Hưng Hoá (140). Dân gian Bắc Kì lan truyền tin đồn: “Người nước Thanh đến tranh lấy Bắc Kì làm kế tự giữ” (140) .
Vua Tự Đức ra dụ: “Lấy lòng tiểu nhân để đo bụng người quân tử! Người nước Thanh đâu có làm việc bất nghĩa như thế” (140) . Thư của tổng đốc Quảng Đông liền được đưa đến cho các quan tỉnh xem để họ trấn an, khuyên bảo nhân dân, “chớ đem lời đồn phi lí mà làm mê hoặc nhau” (140) . Thư ấy được viết:
“Việc quân Pháp xâm chiếm Hà Nội, đã do quan tổng lí các quốc sự vụ là Vương đại thần tâu lên [vua Thanh]. Đại hoàng đế [nhà Thanh] xuống chiếu cho các đốc phủ Vân Nam, Lưỡng Quảng, gia tâm phòng giữ, và cho Vương đại thần đến tận nơi hỏi sứ thần Pháp đóng ở Trung Hoa, bảo: Về nước Việt Nam, trước [là phiên] thuộc Trung Hoa, nay nghe quân Pháp đánh giữ thành [trì] nước Việt; [như vậy là] có hại đến nghĩa giao hiếu của hai nước. Nếu do sứ thần nước Pháp đem nghĩa ấy chuyển [gửi, để] bảo cho Bộ Ngoại giao Pháp, [thì cũng] cốt cho trọn nghĩa bang giao ấy. [Vua Thanh] lại cho Tăng đại thần [Tăng Kỷ Trạch] sang sứ [:đi sứ sang] nước Pháp, giục Bộ Ngoại giao nước Pháp ra lệnh cho quân Pháp ở Việt nam rút ra khỏi thành trì Hà Nội, để giữ vững tình hữu nghị. [Hai việc] đó đều là [bởi] thiên triều [Trung Hoa] yêu mến thuộc quốc [Đại Nam] không lúc nào ngơi. Trừ ra [việc phải] tuỳ thời [mà] đến nước Pháp bàn bạc và đợi nước Pháp trả lời, chước lượng làm việc, [thì] không kể, [nhưng] cũng [thông] tư cho [Đại Nam] biết để tra xét” (140) .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường đọc bản thư ấy cùng những lời châu phê của vua Tự Đức: “Quân nước Thanh nếu sang, [họ là khách], ta là chủ, nên tuỳ nghi khoản tiếp, dò xét, cốt cho đắc thể, chớ để mất lòng” (140) .
Tuy nhiên, ông và cả triều thần cũng như vua Tự Đức chưa thể biết được mưu đồ không trong sáng của nhà Thanh!
Tập tâu của tổng đốc Trực Lệ kiêm biện thông thương sự vụ đại thần là Trương Thụ Thanh (trước đây làm tổng đốc Lưỡng Quảng) đã thể hiện mưu đồ đục nước béo cò ấy:
“Theo độc ác ngầm của người Pháp, Nam Kì của Việt Nam đã bị bỏ mất. [Nay] Bắc Kì đâu dễ giữ được, mà nước Pháp còn lần chần nghĩ kĩ, chưa dám thôn tính ngay. Cố nhiên là bởi Bắc Kì hiểm trở, sức [Pháp] hoặc không thể lấy ngay được. [Pháp] cũng ngại vô cớ nổi lên chiến tranh, sợ Trung Quốc hỏi đến, cho nên buộc nước Việt Nam ngay vào trong điều ước thông thương, [rồi] nhân lúc sơ hở, [Pháp] làm ra trái ước, [chúng] bắt làm [điều] ước lại, tức [là], bề trong thu được lợi đất đai mà bề ngoài chối cãi tiếng cướp nước. [Nước Pháp tiến hành theo cách đó là vì] nước [Pháp] ấy không có thế phạm đến Trung Quốc, [mà] ta [:Trung Quốc] cũng không có [lí] lẽ sinh sự với nước ấy. Đây là mưu xảo trá của nước Pháp, mà Trung Quốc mưu tính nước Việt càng không thể hoãn được.
Tổng lí nha môn Vương đại thần nghĩ nước Việt Nam bị nạn nước Pháp ngày càng lấn dần, mà [chúng] tính đến thêm quân cứu viện, [nên đại thần ấy] lo mất hết rào giậu. Tôi nghĩ các tỉnh ở Bắc Kì [quả] thực nước [Pháp] ấy vẫn dòm ngó, [vốn] thực là phên che của tỉnh Vân Nam và Lưỡng Quảng. Trong ba tháng [năm Nhâm ngọ 1882] quân Pháp đánh phá Bắc Kì, sự cơ ngày càng gấp. Sau người Pháp lại đem thành trì giao trả cho quan Nam! Quỷ quyệt biến đổi luôn, ý không thể lường biết được. [Quả thực,] sợ [chúng] lại dùng mưu cũ chiếm giữ sáu tỉnh Nam Kì, làm hoà ước mới, thu Bắc Kì trong tay, bắt nước Việt Nam phải theo. Việc quả đến thế, [thì] nhân đấy đối phó càng khó.
Cách phòng giữ biên giới của Trung Quốc ngày nay, chỉ có sai quân đóng giữ của tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, giữ ngoài biên giới, vẫn lấy tiếng là đánh thổ phỉ nước Việt Nam, để mưu tiến lên, tức [là] làm chỗ cho quân ta [:Trung Quốc] đóng giữ, hoặc [:có thể] khỏi sự lo người Pháp lấn dần.
Tóm lại, Hồng Hà [thì] là Pháp vẫn chú ý, Bắc Kì [thì] là ta [:Trung Quốc] tất phải tránh [tranh?], giữ ở bốn bên [Bắc Kì], phòng bị trước lúc có việc.
Nước Việt Nam khó mong tự tính được, nước Trung Quốc tất không nên tự để lỡ việc” (140)
.
Vua Tự Đức, triều thần và thượng thư Nguyễn Văn Tường chỉ biết vua nước Thanh Trung Hoa vừa “mới giáng dụ: “Cho bọn quyền tổng đốc Quảng Đông là Du Khoan, tuần phủ Quảng Tây là Nghê Văn Uốt, tổng đốc Vân Quý là Lưu Trường Hiệu, đều sửa tuyển quân thuỷ, quân bộ, chia đóng chỗ yếu hại, để làm thanh thế cứu viện từ xa cho Bảo Thắng [địa phận cư ngụ của Lưu Vĩnh Phúc ở tỉnh Hưng Hoá nước Đại Nam], chớ chỉ làm kế đóng cửa tự giữ”” (140) .
Thế là đã quá rõ, Trung Quốc đã có kế hoạch xâm chiếm Bắc Kì với danh nghĩa bảo vệ chính Trung Quốc! Và nhà Thanh lại tranh thủ Lưu Vĩnh Phúc, trợ giúp trực tiếp cho họ Lưu!
Pháp biết tình hình quân Thanh và kế hoạch cầu viện nhà Thanh của nước Đại Nam ta như vậy, nên chúng cũng đem thêm tàu binh đến Bắc Kì, neo đóng ở Sơn Tây, Hưng Hoá, Bạch Hạc, mỗi nơi hai chiếc (140).
Thống đốc Hoàng Tá Viêm giục quân Lưu Vĩnh Phúc về Thục Luyện, còn các toán quân huấn luyện đến Hưng Hoá, Thái Nguyên, nay đều được triệu về đóng ở chỗ gần tỉnh Sơn Tây (140).
Thống đốc họ Hoàng cùng hai tĩnh biên phó sứ Trương Quang Đản, Nguyễn Hữu Độ và các quân thứ Sơn, Hưng, Tuyên, Bắc, Thái, Lạng, được lệnh dụ “hễ có quân Thanh đến đóng gần, đều phải cấm trấp thuộc hạ yên lặng để đợi lệnh, không được hành động bậy, xem hai bên [Trung – Pháp] làm việc, cử động thế nào, tâu lên ngay” (140) .
Trần Đình Túc cũng được lệnh thôi hàm khâm sai đại thần vì Hà Nội xem như đã được trao trả, vì trong thực tế Trần Đình Túc cũng không thể thương thuyết được gì (141), một khi Hà Nội và Bắc Kì, mới đầu tưởng chừng lặp lại sự thể năm Quý Dậu (1873). Nhưng đó chỉ “xem như” và “tưởng chừng”, mặc dù ai cũng biết rằng không phải như vậy!
Tháng chín Nhâm ngọ (1882), tổng đốc [Nam] Định – [Hưng] Yên Vũ Trọng Bình và các quan tỉnh Nam Định như Đồng Sĩ Vịnh, Hồ Bá Ôn, Lê Văn Điếm chiêu mộ quân người Thanh, nhưng rất đáng tiếc là cấp lương quá lệ định, nên bị trách phạt (142)!
Quan tướng nhà Thanh Hoàng Quế Lan lại được tăng cường quân từ Trung Hoa sang, quân số lên đến mười hai doanh (143). Số quân Thanh ấy đóng trên bốn tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Ninh, Cao Bằng, Thái Nguyên (tả lộ, tả ngạn sông Hồng). Triệu Ốc, cũng tướng nhà Thanh, thống lãnh năm doanh, đóng ở Tuyên Quang và cả ở Thái Nguyên (hữu lộ, hữu ngạn sông Hồng). Quân Thanh đã tăng cường thêm vào khoảng trung tuần tháng chín ấy (143).
Như mọi lúc tình thế trở nên căng thẳng, gay go, những cuộc nội loạn thường ít nhiều nổi lên, lần này, lại xuất hiện sự nổi loạn ở phủ Ứng Hoà thuộc tỉnh Hà Nội. Cầm đầu cuộc nổi loạn ấy là Tư So và Lý Hoà (144). Hai kẻ nổi loạn này dẫn quân xông vào đốt phá dinh phủ, cướp ấn phủ và thả tù phạm để thêm quân. Quá bất ngờ và phòng xét sơ hở, tri phủ Đinh Gia Lễ và suất đội Trần Đình Tân lại “không chịu đem quân chống đánh” (144) , phải bị giáng lưu. Nguyễn Chính, Bùi Ân Niên đem quân nã bắt (144).
Tại Viện Cơ mật – Thương bạc, khoảng cuối thượng tuần tháng chín nguyệt lịch, trước tình hình đã ở vào thế cưỡi hổ, lại càng phải tuyệt đối bí mật, nên Viện – Bạc đã di chuyển, hoán đổi đến phòng Thượng bảo Nội Các (bên chái phía trái Tả vu Điện Cần chánh) và bàn định làm thêm nhà vuông phía sau chỗ ấy, làm nơi kín đáo cho tứ trụ đại thần bàn luận việc cơ mật và trực đêm (145).
Có một điều khiến thượng thư Bộ Hộ, đại thần Cơ mật viện Nguyễn Văn Tường không thể không lặng người đi trong nỗi buồn. Đó là nỗi buồn từ “hoà” ước Nhâm tuất 1862. Thoáng lặng người với nỗi buồn ấy ập đến, vào một ngày tháng mười Nam lịch, Nhâm ngọ (1882), khi ông đọc đến bản tâu của tuần phủ [Bình] Thuận – Khánh [Hoà] Trần Lưu Huệ, điển nông phó sứ Nguyễn Thông và những dòng châu phê của vua Tự Đức trên phiến tâu ông lược ghi hôm trước. Nhà vua chuẩn y việc sai phái hai viên quan ấy “hội đồng với phái viên nước Pháp, khám xét địa giới phận nam ở Bình Thuận và Biên Hoà. (Núi Thần Quy trở vào nam thuộc tỉnh Biên Hoà [thuộc Pháp], trở ra bắc thuộc tỉnh Bình Thuận [thuộc Đại Nam])” (146) . Không phải lấy sông làm ranh giới, mà ấy núi làm mốc chia cắt! Nếu nói bằng ẩn dụ, phải chăng đó cũng là vết thương chia cắt Đất nước, đang sưng tấy lên, nhức nhối hơn cả sông Gianh thuở trước? Dẫu sao, vết thương sông Gianh, đau xé suốt hai trăm năm Trịnh – Nguyễn phân tranh, cũng đều là Đại Việt! Một Đại Việt, tuy vậy, nhưng là một Đại Việt trở thành Đàng Trong, Đàng Ngoài, một Đại Việt nội chiến, núi xương sông máu, và tất nhiên có hận thù, để rồi sau triều Tây Sơn ngắn ngủi, bên thắng trấn áp bên bại (bại vong trước Quang Trung và bị trị bởi triều Nguyễn, kể từ Gia Long). Vết thương núi Thần Quy, khác hẳn. Tuy một bên thuộc Pháp, một bên vẫn là triều Nguyễn còn độc lập, tự chủ, nhưng nhân dân Nam Kì vẫn hướng về triều Nguyễn, vẫn chống Pháp. Không, so với vết thương núi Thần Quy, vết thương sông Gianh đau đớn, nhức nhối hơn nhiều. Có điều, vết thương sông Gianh đã có phần nguôi ngoai, để sông Gianh mãi mãi vẫn lại là dòng sông tự nhiên mênh mang, trong mát… Thượng thư Nguyễn Văn Tường bỗng chìm vào một thoáng ngậm ngùi liên tưởng.
Tại sao đến lúc này Pháp lại đòi xác định lại ranh giới, yêu sách khám xét phần đất phía bên ta? Ông biết, chúng đã biết ta tăng cường phòng thủ vùng địa đầu nơi ấy! Thoáng lặng người với nỗi buồn chợt tắt, để dấy lên trong lòng ông niềm căm hận…

13

Hồng lô tự khanh, biện lí Bộ Hộ Ông Ích Khiêm (147) nói với thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường, sau khi ông đặt chén trà nóng trên tay xuống chiếc dĩa trong vuông khay:
- Tôi thấy tôi có năng lực về quân sự hơn là về quốc kế dân sinh…
Thượng thư Nguyễn Văn Tường mỉm cười:
- Sao quan biện lí lại khiêm tốn thế! Quan biện lí đã từng là một thần đồng văn triết sử, cũng đã từng là một danh tướng trong việc cầm quân đánh giặc, tiễu phỉ, thì trong lúc này, tạm thời làm việc ở Bộ Hộ, cũng phải là danh tướng về quốc kế dân sinh chứ!
Danh tướng họ Ông thở dài. Gương mặt ông hơi buồn. Ngẫm nghĩ một lúc, ông lại nói:
- Làm việc Bộ Hộ, thật ra cũng có nhiều cái hay. Trước khi bước hẳn sang nghiệp tướng cầm quân, tôi cũng đã có một số năm làm tri huyện, cũng lo ruộng đất, thuế khoá, sổ đinh, quân nhu và đủ thứ việc của một quan đầu huyện. Nhưng từ khi cầm quân, là một tán lí, một tham tán với hàm tham tri Bộ Binh, tôi trót quen vẫy vùng, với luật lệ chiến trường “tướng nhất hô quân bá ứng” (tướng một người khởi xướng, quân trăm đội đều hưởng ứng), “quân lệnh như sơn” (lệnh quân đội nặng và cao như núi) . Thế mà bây giờ hai bản tấu trình của tôi đều bị vua bác, thật quá chán! – Quan biện lí Ông Ích Khiêm cười lớn –. Vậy mới biết, làm tướng cầm quân tuy khổ cực, lắm khi bị trúng thương và không lúc nào không gần kề cái chết, nhưng lại có oai phong nghiêng trời lệch đất. Không có gì hạnh phúc hơn là những ngày tháng oanh liệt đó…
- Việc Bộ Binh, hiện do quan thượng thư Tôn Thất Thuyết và quan đại thần Trần Tiễn Thành nắm giữ, cố vấn… – Thượng thư Nguyễn Văn Tường bỏ lửng câu nói –. Việc nhà vua không đồng thuận theo kiến nghị của quan biện lí là bởi ta đang tranh thủ người Thanh, để đối trọng với bọn Pháp và các nước Tây dương khác!
- Khi nhà vua chuẩn cho người “thuộc khách là Lương Văn Phong mua đóng tàu thuỷ nhỏ đi đường sông, chở than đến Đà Nẵng, Ông Ích Khiêm [tôi] rất lo về tạ sự [: lo chúng mượn việc này để làm việc khác], xin cấm bãi. [Nhưng] vua không nghe” (148) ! Đó là hồi tháng chín năm Nhâm ngọ (1882) này, mới cách đây một tháng. Mới đây, tháng mười này, bản sớ của tôi dâng kế về quốc phú binh cường, “vua cho là phải” , có điều nhà vua còn phê rằng, “nhưng vì việc phòng giữ biên giới chưa thư [thả], không thi hành được” (147) !
- Sự thật là tình hình rất gay go, Hà Nội vừa thất thủ chưa lâu, bọn Pháp nói trả thành nhưng chỉ là kế hoãn binh của chúng. Vì thế, phỉ được vỗ yên ở biên giới bắc, hiện nay có chỗ đã lại sinh sự, cướp bóc, còn có khả năng ngóc đầu dậy, và các tỉnh khác ở trung châu Bắc Kì đang tăng cường phòng thủ, chờ quân Thanh sang nước ta làm đối trọng với Pháp, để bọn Pháp tự dẹp bớt cuồng vọng tham lam… Tình hình như thế, kế sách quốc phú binh cường của quan biện lí tuy rất hay, nhưng không hợp thời điểm. Thật ra không có gì cần thiết hơn như quan biện lí đề xướng: khai mỏ, có đại thần chuyên trách; mở cục đúc tiền; đặt trường diễn võ, chọn quân khoẻ mạnh để dạy tập. Nếu trước đây vài ba năm, hẳn được thực thi ngay. Thôi, hãy đợi tình hình sáng sủa, thư thả hơn, còn thật sự như quan biện lí họ Ông thấy đó, rất khẩn cấp, căng thẳng.
Biện lí Bộ Hộ Ông Ích Khiêm gật gù. Không phải ông không biết thời điểm này là lúc phải cầm súng, vung gươm, đánh bật bọn Pháp ra khỏi Bắc Kì, để quân Thanh rút về nước, ít ra cũng như thời đoạn vài năm trước đây… Ông thấy thật bực bội cho ông, một danh tướng đã từng trực tiếp chiến đấu cả một trăm mấy chục trận, lúc này, lại làm công việc trái với năng lực quân sự của mình.
Ngẫm nghĩ một lúc, ông cáo từ quan thượng thư Nguyễn Văn Tường, người đã một thời là tán lí, tán tương quân thứ chiến đấu cạnh ông trong nhiều trận.
Nhờ sự tâu xin cuả thượng thư Nguyễn Văn Tường, không lâu sau, Ông Ích Khiêm được như ý nguyện, có chỉ dụ làm tham biện Hải phòng sứ kinh kì (149), cùng Lê Sỹ, Lâm Hoành, Nguyễn Hanh và nhiều viên tướng tá khác lo việc phòng thủ cửa Thuận An và tuyến đồn luỹ dọc sông Hương.

14

Thực dân Pháp vẫn cố sức nắm rõ quan hệ Việt – Hoa. Tên khâm sứ Rheinart viết phúc trình vào Nam Kì ngày 02.08.1882 (19.06 Nhâm ngọ):
“Sau cuộc chiến ở Hà Nội, nước Nam đã đi sát Trung Hoa hơn để được cứu viện và nếu cảm thấy bị ta đe doạ thì họ sẵn sàng hi sinh nền tự trị của họ, sẵn sàng thay đổi những quyền lợi của nước tôn chủ, trước đây chỉ có tính chất danh dự trở thành quyền lợi đích thực của sự thống thuộc, vì họ muốn là, thà chịu làm ngoại thuộc Trung Hoa còn hơn là phải chịu ép dưới ảnh hưởng và hành động quá lớn của ta. Trung Hoa trước đây không để ý gì tới các vấn đề đối ngoại ấy, nay đã bắt đầu thay đổi chính sách” (150) .
Thật ra, ngay từ cuối năm Canh thìn (1880, bước sang đầu 1881), thượng thư Nguyễn Văn Tường đã lập Cục Thuyền chính với ý định ngoại giao về chính trị trong quan hệ vận tải đường biển. Từ tháng ba nguyệt lịch Tân tị (1881), Đường Đình Canh đã tới Huế để có cuộc tiếp xúc sơ bộ. Sau cuộc tiếp xúc Nguyễn Văn Tường – Đường Đình Canh ấy, Tôn Thất Thuyết mới về kinh, nhưng chưa nhận chức vụ gì, chỉ ở nhà chữa bệnh. Từ cuối năm ngoái dương lịch, ngày 30.11.1881 (09.10 Tân tị), tên khâm sứ Rheinart hẳn đã thăm dò để biết Viện – Bạc đã hạ quyết tâm mở rộng ngoại giao, phá vỡ tình trạng bị Pháp cô lập, và hướng mở là về phía Trung Hoa. Bấy giờ y đã biết thái độ chính trị của Nguyễn Văn Tường đã trở nên quyết liệt và ông thực sự là người mà Rheinart gọi là “đứng đầu phe cứng rắn” trong triều đình.
“Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đình Canh tháng này [tháng chín, năm Tân tị (1881)] cũng đến, xin do BỌN TÔI thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ý với Lý Hồng Chương, nhờ mật dò ý [của] sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ [:Đức], để nắm được cốt yếu, thông thuyết giúp cho” (49) .
Sau đó, ngày 27 tháng mười một Tân tị (16.01.1882), Tôn Thất Thuyết mới bắt đầu được dụ bổ nhiệm thự thượng thư Bộ Binh.
Tháng chạp Tân tị (đầu năm 1882), thượng thư sung Viện – Bạc đại thần Nguyễn Văn Tường đã tiếp xúc trực tiếp với Đường Đình Canh, một đại diện của Chiêu thương cục:
“Vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ; bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đình Canh.
[Đường] Đình Canh nói: “Tháng mười năm nay, khâm sai nước Thanh đóng ở nước Anh là Tăng Kỷ Trạch báo tin rằng: “Nghị viện nước Pháp bàn kín, Bắc Kì nước ta đất cát màu mỡ, núi sông lại có mỏ vàng, bạc, đồng, sắt, than đá, xét ra tình thể, chỉ giở bàn tay là xong. Lãnh sự nước Pháp là Thoát Lãng lại đã xin đem một, hai nghìn [1.000 – 2.000] quân đánh lấy Bắc Kì. Nghị viện nước Pháp đã chuẩn y. Chẳng bao lâu tất đem quân nước ấy cùng các đạo quân ở Tây Cống [:Sài Gòn] khẩn cấp cùng phát đi. Còn [Pháp] nói là đuổi Lưu Vĩnh Phúc, chỉ là nói thác ra mà thôi. Vua nước Thanh giao cho các nha môn quân cơ bàn cho thỏa đáng, cho nên tổng đốc tỉnh ấy phái đạo viên ấy báo tin cho nước ta, phải mưu tính ngay để mong giữ được”.
Vua cho là thư của tổng đốc ấy đã hồn nhiên, ta cũng không nên lộ; sai Văn Tường mật dặn [Đường] Đình Canh ba việc:
+++ Nước ta triều cống nước Thanh, các nước đều biết. Nước Thanh đặt Tổng lí nha môn, công luận ở đấy. Nếu họ sinh lòng trái lời ước thì nước Thanh nhận làm thuộc quốc của nước Thanh, [để] cùng với các nước tranh luận, thì họ cũng không dám trái công luận để làm theo ý riêng. Nhưng cho nước ta đặt quan đón đón chờ [:quan tiếp tân, quan ngoại giao] ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì, được tố cáo ở Tổng lí nha môn.
+++ Ở Quảng Đông, hiện nghe lãnh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy. [Triều đình Đại Nam] muốn nhờ quan tổng đốc Quảng Đông tâu xin [vua Thanh] cho nước ta đặt một lãnh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý.
+++ Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học, [nhưng] chưa được thuận tiện. Nước Thanh có tàu thường đi lại các nước ấy, [ta] muốn nhờ đáp đi, [hẳn] không trở ngại.
Đến khi [Đường] Đình Canh về, vua sai viết thư trả lời tổng đốc Quảng Đông. Đại khái nói: “Đầu mối việc ấy đã hiểu qua cả. Nay nên làm thế nào mà có thể được tiện, [thì] đã như đạo viên họ Đường trình bày ở trước mặt tất cả”.
Và [ngoài ra, nhà vua còn bảo] gửi thư cho thự lí thông thương khâm sai đại thần nước Thanh là Lý Hồng Chương.
Lại đều đem đồ vật gửi tặng: tặng Trương Thụ Thanh, Lý Hồng Chương mỗi người một đôi ngà voi hạng nhất, một cái sừng tê hạng nhất. Sau, tổng đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh] đem đồ vật ấy trả lại, nói rằng, nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết; tổng đốc họ Lý [Lý Hồng Chương] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho, để tỏ tình cùng khuyên về ý đều phải tự cường” (151)
.
Quả là tên khâm sứ Rheinart đã phúc trình vào cho thống đốc Nam Kì khá chính xác! Và hẳn là tên lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng đã báo cáo về Pháp vào ngày 24.11.1882 (14.10 Nhâm ngọ):
“Theo yêu cầu của Nam triều gởi đến triều đình Trung Hoa vì có cuộc tranh chấp xảy ra tại Hà Nội, xin một số quân viện là hai mươi ngàn (20.000) người. Hoàng đế Trung Hoa đã phúc đáp bằng những chữ: “Khả, sĩ bắc phong tái biện”. Chữ “khả” có nghĩa là “được, có thể”, đó là dấu chấp thuận, hoàng đế Trung Hoa thấy vua nước Nam xin như vậy là phải, nên chấp thuận. Còn “sĩ bắc phong tái biện” thì có thể dịch là: “Ta sẽ thi hành biện pháp ngay khi gió bắc thổi tới”. Trung Hoa đã trả lời: “Rất tốt! Chúng tôi sẽ thi hành biện pháp ngay khi có gió bắc thổi tới”” (152) .
Trước ngày tên lãnh sự Pháp ở Trung Hoa phúc trình về Bộ Hải quân và Thuộc địa Pháp tại Paris khoảng ba tháng, thật sự quân Thanh đã áp sát ra biên giới từ tháng bảy nguyệt lịch Nhâm ngọ (khoảng tháng tám 1882). Điều đó dẫu sao cũng khiến cho triều đình Huế vững tin.
Ngày 13.08.1882 (30 tháng sáu Nhâm ngọ), thượng thư Tôn Thất Thuyết vẫn còn bị Vua Tự Đức không chấp thuận, qua việc vua viết dụ phê phán việc ông được đề cử. Vì vậy, ngay từ lúc thượng thư Tôn Thất Thuyết hẳn chưa được sung vào Viện Cơ mật, vào ngày mùng 06 tháng 09.1882 (24 tháng bảy Nhâm ngọ), quyết tâm chủ chiến đã được Nguyễn Văn Tường đưa ra.
Cũng vẫn tên Rheinart, ngày 16.09.1882 (05.8 Nhâm ngọ), y viết văn thư phúc trình từ sự thăm dò tình báo của y, đệ trình vào Gia Định cho tên thống đốc Le Myre de Vilers:
“Trong phiên họp ngày 06 tháng [chín dương lịch 1882] này, Viện Cơ mật đã đồng thanh nhất trí theo phe chủ chiến chống Pháp. Một bản tâu đã được viết theo ý ấy và được tất cả mười sáu thành viên của Viện kí tên, đệ lên nhà vua xin chấp thuận. Người ta phỏng rằng nhà vua đã ngả về ý kiến đó, vì vào tháng năm [dương lịch, 1882], ông [:vua] đã cho vận động xin Trung Hoa can thiệp” (153).
“Nếu tách ra từng cá nhân một, thì các thành viên (của Viện Cơ mật) hẳn chưa đồng ý với sự đổ vỡ. Người ta còn có thể nói một cách khá chắc chắn là đa số đã phản đối; nhưng vì những người có ảnh hưởng nhất lại là những kẻ nghịch thù nhất. Họ lôi cuốn những người khác phải theo. Nhưng người này sợ bị liên lụy nếu tỏ ý phản đối” (153)
.
Thượng thư Bộ Hộ sung đại thần Viện Cơ mật Nguyễn Văn Tường, dĩ nhiên vẫn là “nhân vật ảnh hưởng nhất triều đình Huế” (154) (30.11.1881 [09.10 Tân tị]) .
Nếu hai khâm phái lãnh sự Nguyễn Thành Ý, Nguyễn Lập thường xuyên gửi tin tức tình báo về cho triều đình Đại Nam tại kinh đô Huế, thì các tên khâm sứ Pháp tại Huế, lãnh sự Pháp ở Yên Kinh tại Trung Hoa cũng không kém gì!

15

Tháng mười hai, những ngày gần cuối mùa đông rét buốt, thượng thư Bộ Hình Phạm Thận Duật được sung chức khâm sai đại thần, cùng với thị lang gia hàm tham tri Nguyễn Thuật sung làm phó khâm sai, đi sang Thiên Tân tại Trung Hoa, công cán về ngoại giao với nhà Thanh (155). Cũng trong phái đoàn ấy, nhưng biện lí Bộ Hộ Nguyễn Phiên (Nguyễn Thượng Phiên) sung chức khâm phái lại sang Quảng Đông để làm nhiệm vụ đệ trình tin tức, thông báo (155).
Đây là một bước thực hiện kế hoạch liên minh với nhà Thanh đã được Viện – Bạc vạch ra từ tháng tám Tân tị (1881).
“Từ khi Hà Nội có việc, ta đã đưa thư cho tổng đốc Quảng Đông là Dụ Khoan [và] Tăng Quốc Thuyên, nhờ liệu định cho thoả đáng.
Đến nay, tổng đốc họ Tăng uỷ Cục Chiêu thương [,đại diện] là Đường Đình Canh, [các viên] tỉnh thuộc là bọn Mã Phục Bôn, Chu Bỉnh Lân, cùng với phái viên Yên Kinh là Đường Cảnh Tùng đến hỏi hiện tình và bàn việc nên làm. ([Đường Cảnh Tùng là] chủ sự, tiến sĩ xuất thân, phụng mật chỉ [của vua Thanh] đến nước ta dò xét).
[Trong khi bàn luận, phía phái đoàn Trung Hoa] có câu nói rằng: “Dùng sức mà đánh, [thì] chưa thấy thừa sức; lấy lí mà biện bác, hoặc có thể giải được”.
[Triều đình Đại Nam] đã phái Nguyễn Thuật sang làm khâm sai, cùng đi với quan nước Thanh, đến trình tổng đốc Quảng Đông, nhờ chuyển lên [vua Thanh] giúp. Bỗng [triều đình ta lại] tiếp được điện tín của Lý Hồng Chương [với nội dung] mời đại thần nước ta độ hai, ba người đến Thiên Tân để hỏi han và bàn việc đối phó với nước Pháp. Vua bèn chọn bọn [Phạm] Thận Duật đem quốc thư đi.
[Về nguyên nhân của bản điện tín:] Nước Thanh được tin Hà Nội thất thủ, lập tức sai Lý Hồng Chương thương thuyết với công sứ nước Pháp là Bảo Hải [:Bourrée]. Bảo Hải [:Bourrée] cũng muốn thuận theo, [y] viết thư về nước Pháp, [xin] xét định. Cho nên Lý Hồng Chương mới có điện tín ấy… […] …” (155)
.
Chánh phó khâm sai đại thần Phạm Thận Duật, Nguyễn Thuật phải đi đường mất hai tháng mới đến Thiên Tân ở Trung Hoa! Quảng Đông, nơi khâm phái Nguyễn Phiên phải đến, không xa biên giới nước ta là mấy.
Mùa đông năm sau, họ đều trở về nước…
Dẫu sao, những nỗ lực phá vỡ sự cấm vận, bao vây ngoại giao của Viện – Bạc là rất đáng kể, khiến cho thực dân Pháp phải thất điên bát đảo. Trong đó, vai trò nhà ngoại giao kì cựu Nguyễn Văn Tường có những đóng góp rất quan trọng vào việc đề xướng và vạch nên kế hoạch.
Trong lúc vẫn tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao với Trung Hoa, ở Bắc Kì, quân Thanh đã sang đóng ở nhiều tỉnh tại nước ta và quan quân nước ta vẫn có kế hoạch phòng thủ, triển khai lực lượng đến các tỉnh với danh nghĩa bắt cướp nhưng thực chất là chuẩn bị đối phó với giặc Pháp, thực hiện sự dự phòng để cứu viện cho nhau thật nhanh chóng (156) (khắc phục nhược điểm trước đây, Pháp đánh tỉnh nào, chỉ tỉnh ấy tự chống đỡ!).
Vua Tự Đức lại ra dụ, vẫn chú trọng đến việc thương thuyết ngoại giao!
“… Nay đã trải ba mùa mà quân nước [Pháp] ấy chưa chịu rút về, lòng chúng không thể tin được, thì sự cơ càng phải cẩn thận. Nay hiện đương thương thuyết chưa xong, sơ hở không chu đáo một tí, lâm sự sao đối phó ngay được… […]… Phòng bị nghiêm ngặt kĩ hơn, lại tìm cách ngăn hẳn bọn Hán gian, cốt để cho nhân dân sở tại được ở yên, bọn bất lương không dỗ dành làm loạn được, thì tự khắc chúng [:Pháp] không xen vào đâu được…” (157) .
Vua Tự Đức gần đây vì quá lo lắng, căng thẳng, nên ngã bệnh. Đó là sắc dụ bình tĩnh, vẫn rất bình tĩnh, mặc dù được viết trong lúc nhà vua đang mệt nhọc, ốm đau, lại bất bình với hoàng quý phi Vũ thị (158). Trong tình cảnh chung và riêng tư ấy, vua Tự Đức vẫn hết sức cố gắng làm việc, luôn đọc, phê các bản tấu trình và tham khảo ý kiến đình thần, nhất là Viện – Bạc (159).
Hạ tuần tháng chạp Nhâm ngọ (1882) này, sao chổi lại mọc. Ban đầu, sao chổi dài một thước ta. Dần dần, dài đến hai thước ta. Sau ba ngày, sao chổi mới lặn mất.

16

Tết Nguyên đán năm Tự Đức thứ ba mươi sáu, Quý mùi (1883), đã trôi qua.
Triều đình được tin báo thống đốc Pháp tại Gia Định Lê My (Le Myre de Vilers) đã về nước, Tam Sung (Thomson) sang thay (160). Có điều gì khác với chính sách và chủ trương của Pháp trước đó chăng?
Viện – Bạc lại nhận được tập tâu báo từ Thanh Hoá đệ gửi vào kinh đô, với một mẩu tin về hoạt động của phái viên Pháp. Có một vài tên cùng binh lính của chúng đến động Từ Thức (161), một động vốn mang nhiều huyền thoại thuộc tỉnh ấy. Để bảo đảm việc bí mật quân binh, lập tức có lệnh ngăn chúng lại.
Về Cục Chiêu thương nhà Thanh, tuy đã có những quan hệ không những trên mặt nổi là vận tải gạo và các hàng hoá khác, còn có quan hệ chủ yếu ở mặt chìm là liên minh quân sự, trong tháng chạp năm ngoái, nhưng khi Cục ấy xin đóng tàu thuyền nhỏ để tiện vào các sông thuộc bảy tỉnh Bắc Kì chuyên chở lương thực, triều đình vẫn không thể chấp thuận (162). Đó cũng vì bảo mật việc phòng thủ và chưa hiểu nhà Thanh thực chất đang có thái độ như thế nào. Tháng giêng này, trên quan hệ mặt nổi, Bộ Hộ của thượng thư Nguyễn Văn Tường tiến hành bàn bạc với Cục Chiêu thương về việc chở thóc thay vì gạo để tồn trữ được lâu hơn, và đã tâu xin để cấp tiền tử tuất khá hậu cho một số thuỷ thủ thuộc Cục ấy bị thiệt mạng do tàu bị va chạm, mắc cạn, hỏng máy ngoài cửa biển Thuận An (Huế) (162). Sự cố xảy ra một phần là bởi cửa biển kinh đô này hiện nay đang bị mỗi ngày mỗi bồi nông dần một cách tự nhiên (162).
Bộ Hộ vẫn cố giữ sự đúng mực trong quan hệ này.
Cũng tháng giêng này, phó sứ Nguyễn Thuật đi sứ sang Trung Hoa, đến nay về lại kinh đô Huế. Nguyễn Thuật tâu trình, vẫn chưa thấy có gì khả quan hơn trong quan hệ với Trung Hoa, nhất là việc cùng nhà Thanh vận động các nước phê phán sự xé bỏ “hoà” ước Giáp tuất 1874 của Pháp, việc Pháp đang xâm lấn Bắc Kì. Nguyễn Thuật lại tâu về tình hình biên giới bắc: Kẻ gian, bọn hải tặc và quân Thanh đang dỗ mua, chận bắt dân ta và đem về nước Thanh (163)! Tháng mười một năm ngoái vừa bêu đầu tên tướng phỉ hung hãn Lục Chi Bình (164), chúng vẫn chưa chịu để cho dân ta yên ổn. Quân Thanh mới sang, chưa giúp được gì trong việc đánh Pháp, đã vội giở trò đốn mạt! Không thể không gửi văn thư trách cứ, bàn việc với tuần phủ Quảng Tây và truy bắt, phạt nặng những kẻ phạm (163).
Tình hình về thực dân Pháp và nhà Thanh Trung Hoa trong những ngày đầu năm mới Quý mùi này vẫn chỉ là như thế. Hơn ai hết, nhà ngoại giao kì cựu Nguyễn Văn Tường hết sức chú tâm, trút hết sức lực vào mặt trận này.
Việc phòng thủ, chuẩn bị thêm về binh lực, vẫn được thượng thư Tôn Thất Thuyết đảm đương, lo toan.
Tuy nổi tiếng là một vị tướng thiên về Phật giáo, căm thù “tả đạo” (165), nhưng thượng thư Tôn Thất Thuyết đã tâu xin cho Tạ Hiện về kinh làm chưởng doanh Hùng Nhuệ, mặc dù quan tỉnh Bắc Ninh tâu trình vợ Tạ Hiện là người theo Thiên Chúa giáo, “sợ quan ngại” (166) . Quan ở Bộ Binh và hẳn được sự đồng ý của thượng thư, cho rằng Tạ Hiện có nét mặt oai hùng, dáng dấp to lớn, và tuy là quan võ nhưng Tạ Hiện cũng biết văn tự, ăn nói không phải không có nghĩa lí, hơi tự phụ, nên không khỏi bị dèm pha, thế thôi (166). Hẳn Bộ Binh đã nghiên cứu trường hợp cụ thể này, thấy rằng quan hệ vợ chồng vẫn là “phu xướng phụ tuỳ” (chồng kêu vợ dạ), và đặc biệt với viên võ tướng Tạ Hiện hẳn vẫn đa thê ấy, vợ con không thể chi phối ông được một mảy may nào.
“Bấy giờ, tàu chiến nước Pháp đến thêm, mà nước Thanh mới phái đến chỉ ba doanh, hiện [quân Thanh] đóng ở Quán Ty, đi lại dò xét. Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản dâng sớ nói: Nước Pháp phái thêm tàu chiến, [thế] đã bức hơn trước. Ta há nên im lặng, chịu phép để đợi quân nước ngoài từ xa đến. Việc [thấy] cùng chậm lắm. Nghĩ nên chỉnh bị ngay các thứ đối phó với giặc… […] … Hạt Bắc Ninh gần sát với Đồn thuỷ của Pháp, chống giữ rất khẩn cấp, [xin] mật tư cho tỉnh Lạng Sơn bàn với [tướng Thanh] Hoàng Quế Lan, chọn phái quân một vài doanh đóng thêm ở đồn Nhã Nam tỉnh Bắc. Lương Quy Chính, Nguyễn Cao, Trần Xuân Soạn liệu trích quân ở quân thứ và toán quân ở Cao Bằng, Lạng Sơn về tỉnh [Bắc] chia nhau đóng giữ. [Bùi] Ân Niên xin vẫn ở lại tỉnh Bắc để trấn áp, [và] cùng với [Trương] Quang Đản trù nghị việc phòng bị” (167) .
Ở Viện Cơ mật – Thương bạc, đối với thượng thư Nguyễn Văn Tường, vào thời điểm này, hầu như choán hết tâm trí ông, ngoài trận thế ngoại giao, còn là mặt trận Bắc Kì. Ông nghiên cứu cẩn trọng những bản tấu, sớ ấy để đệ trình lên vua. Ông vẫn thấy rất tiếc khi vào lúc này, thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết chưa được nhà vua cử vào Viện – Bạc, trong khi thượng thư Bộ Hình Phạm Thận Duật đã sang Trung Hoa thương thuyết. Lúc này, quản lí sự vụ Bộ Binh Trần Tiễn Thành lại bị triều thần chê trách và ông ta đang xin nghỉ ốm (10)!
Đến thời điểm hiện nay, vua Tự Đức lại quá mệt nhọc và bệnh chưa khỏi! Nhà vua chắc hẳn phải quyết định bổ sung thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết vào Viện Cơ mật – Thương bạc, đồng thời, chuẩn cho tả tham tri Bộ Lại kiêm quản Nha Thương bạc Nguyễn Trọng Hợp thăng thự thượng thư Bộ ấy, tuy chưa sung Nguyễn Trọng Hợp vào tứ trụ đại thần.
Cuối tháng giêng, đình thần quyết định răn trị một nhóm dân Hải Dương, Bắc Ninh, Thanh Hoá sao truyền cho nhau đọc ngụy thư (168). Đó là sách ngụy, trước đây do tên giặc “phù Lê” Hồ Văn Vạn cùng một tên giặc khác (tên là Quang) làm ra, nhằm mục đích tuyên ngôn cho việc chúng nổi dậy bằng vũ trang, khi Jean Dupuis, Françis Garnier đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất, Quý dậu (1873) (168). Trong những kẻ bị xử án ấy, có Cao Bá Liên (168), con trai Cao Bá Đạt, tức là cháu của Cao Bá Quát (một thi sĩ tài hoa nổi loạn, hồi lực lượng Thái bình thiên quốc bên Tàu dấy binh)!
Tháng giêng Quý mùi (1883), tuy vậy, vẫn trôi qua, chưa có động tĩnh gì về chiến tranh. Nhưng triều đình và nhân dân cả nước đều biết rằng đó là những khoảnh khắc im ắng trước khi chiến tranh bùng nổ dữ dội.
Tháng hai nguyệt lịch, một nửa quan tỉnh Hà Nội đi đóng trụ sở ở nơi khác, vì trong nội thành, Pháp vẫn chưa rút, đang khống chế (169).
Tỉnh Nam Định, dưới quyền của tổng đốc Định – Yên Vũ Trọng Bình, đành phải đóng Ti Thuế quan ở sông Trà Lý (170), trước sự tăng cường quân của giặc Pháp. Do đó, Nam Định vẫn được mộ thêm quân Thanh và tập trung, tuyển chọn võ sĩ nước ta, sau khi ông tâu báo: Theo tin tình báo, Pháp chuyển đến, đóng thêm năm trăm (500) quân ở Hải Dương, một ngàn (1.000) tên ở Hà Nội (170). Một lực lượng xâm lược không phải nhỏ, nếu kể đến vũ khí chúng được trang bị!
Phó kinh lược sứ Bùi Ân Niên chiêu mộ thêm thủ dũng và tuyển chọn được một ngàn (1.000) quân tinh nhanh, khoẻ mạnh, để chuẩn bị chiến đấu (171).
Hiện tượng cửa Thuận An bị lấp dần, trước mắt là một thuận lợi về phòng thủ. Tàu chiến của Pháp không thể vào được. Nhưng việc vận tải các hàng hoá nhu yếu, nhất là lương thực lại ách tắc. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường phải có kế hoạch trích trữ lương thực cho kinh đô (172). Đó cũng là công việc dự bị trong tình hình chiến tranh hẳn sẽ nổ ra.
Trong thời điểm im ắng căng thẳng ấy, triều đình lại nhận được văn thư của thự lí thông thương đại thần nước Thanh Lý Hồng Chương.
“… Việc quý quốc [Đại Nam] giao thiệp với nước Pháp, sau khi bản thự [:tôi] về Thiên Tân coi việc, [đã] nhiều lần nghe tin, [cũng] đã cho bộ đường Lưỡng Quảng sao thư của quý quốc trước sau gửi đến để cho biết. [Bản thự tôi] bỗng gặp công sứ Bảo [:Bourrée] nước Pháp đóng ở Trung Quốc đi qua Thiên Tân, [nên] cùng hỏi bàn ngay trước mặt. [Bản thự tôi] định đem lời bàn thoả đáng, [đưa ra] phép hay, có ích [cho] cả hai nước. Nhưng [quý quốc Đại Nam và bản quốc Trung Hoa] nam, bắc cách nhau, đường xa, chưa biết hiện tình thế nào.
Quý quốc là phên giậu của bản triều, hơn hai trăm (200) năm rất là cung kính. Tổng lí các quốc sự vụ là Vương đại thần và bản thự gặp việc liên quan đến, rất muốn khu xử giúp cho thoả đáng. Mong rằng theo điện tín trước, [quý quốc] phái ngay đại thần đến Thiên Tân, [để] hỏi kín cặn kẽ cho tiện, [từ đó] tuỳ cơ tìm cách điều đình với công sứ nước Pháp” (173)
.
Vua Tự Đức ra lệnh viết phúc thư:
“… Các việc trước, [bản quốc Đại Nam] đã sai sứ thần đem thư đi, [đồng thời] lại đem các việc nước Pháp phái thêm tàu binh đến, [chúng] nói cố đánh quân Lưu Vĩnh Phúc để thông sang Vân Nam, khiến cho nước [Đại] Nam chịu cho nước [Pháp] ấy “bảo hộ” và [cho Pháp] đóng quân ở các kho Hà Nội, Hải Dương. [Các bản thư và lời tường thuật ấy của bản quốc Đại Nam là nhằm] xin chuyển đạt giúp đến Tổng lí các quốc nha môn, xem cơ sự [mà] xử lí khéo giúp cho, [để] cho nước [Pháp] ấy phải nghe [theo công lí]…” (174) .
Đúng là việc thương thuyết vẫn chưa xong. Hướng ngoại giao mở ra về phía Trung Hoa nhà Thanh, qua trung gian nhà Thanh, để đấu tranh với Pháp trước công luận quốc tế về việc Pháp đã bước đầu thực hiện dã tâm xâm lược Bắc Kì lần thứ hai, quả thực, chưa có gì khả quan. Thương thuyết ngoại giao chỉ đang ở mức như thế, còn liên minh quân sự? Về quân sự, nhà Thanh cũng đã cho quân áp sát biên giới và có một số quân doanh đã sang đóng trên lãnh thổ nước ta, nhưng vẫn chưa động tĩnh gì.
Tổng đốc Vũ Trọng Bình tâu trình và được chuẩn y về việc xin lấp các đường sông nhỏ, ngăn đường nhỏ để chặn tàu binh Pháp và đỡ chia quân phòng thủ (175). Đó là việc bất đắc dĩ nhưng phải làm, mặc dù tháng trước, Hà Nội phải tâu xin được đào thêm sông để bớt thế nước lũ chảy xiết (cùng với việc đắp thêm đê) (176).
Ngay sau đó, Nam Định bị tấn công!

17

Ngày mười tám, tháng hai nguyệt lịch, năm Tự Đức thứ ba mươi sáu, Quý mùi (27.03.1883), tàu binh của quân Pháp nã đại bác vào thành Nam Định (177). Quan quân chia nhau phòng giữ, bắn trả vào tàu binh của giặc. Súng lớn, súng nhỏ của bọn Pháp bắn đến suốt ngày, vẫn không hạ được thành (177).
Hôm sau, ngày mười chín (28.03.1883), tàu binh Pháp chạy đến sông Vị Hoàng, lại nã đại bác vào thành. Sau đợt tấn công bằng súng trọng pháo, chúng cho quân bộ binh sấn vào cửa đông, quyết phá cửa. Quân ta vẫn anh dũng phản công, nhiều lần đẩy lùi quân Pháp (177).
Tổng đốc Định – Yên Vũ Trọng Bình, vị quan lão thành vừa được vua Tự Đức tổ chức lễ mừng sinh nhật lần thứ bảy mươi cho ông cùng Trần Tiễn Thành hồi năm ngoái (tháng mười một, Nhâm ngọ, 1882) (178). Lúc này, với tuổi bảy mươi mốt, râu tóc bạc phơ nhưng vẫn còn rất quắc thước, khoẻ mạnh, trước sức tấn công dữ dội của bọn Pháp, ông vẫn điềm tĩnh chỉ huy quan quân chống trả quyết liệt. Ông cùng bố chính sứ Đồng Sĩ Vịnh, người Tiên Nộn, Thừa Thiên, cố thủ trong thành, theo kế hoạch đã bàn. Trong khi đó, đề đốc Lê Văn Điếm (phó bảng khoa võ, người Vĩnh Lộc, Thanh Hoá), án sát Hồ Bá Ôn (tiến sĩ khoa văn, khoá Ất Hợi, Tự Đức thứ 28, người Quỳnh Lưu, Nghệ An) dẫn quân cảm tử tiến ra ngoài thành, để chia hoả lực tấn công của giặc Pháp, vì các quan và quân binh không chịu để mất thành (177).
Trước sự phản công mãnh liệt của hai cánh quân cảm tử đã tiến ra khỏi thành luỹ, bọn Pháp phải dốc hết sức, cố tiêu diệt hai cánh quân đó. Cuộc chạm súng rất dữ dội, diễn ra từ giờ mão (5 – 7 giờ sáng) đến giờ ngọ (11 – 13 giờ trưa) (177).
Bấy giờ, nếu thái tử thái bảo, kinh lược sứ Bắc Kì Nguyễn Chính (Chánh) không hèn nhát kéo quân chủ lực, hiện đóng ở xã Đặng Xá, huyện Mỹ Lộc gần đấy, đến phối hợp với quân tỉnh như mật dụ đã ban, hẳn thành Nam Định vẫn được giữ vững và tàu binh Pháp phải bỏ chạy, bộ binh của chúng không khỏi tan tác (179). Nhưng Nguyễn Chính thật sự là một đại thần đáng lên án, nguyền rủa.
Do đó, kế hoạch phòng thủ, phản công bị vỡ!
Đề đốc Lê Văn Điếm vẫn nổ súng về phía giặc khi ông đã bị trúng đạn. Ông hi sinh ngay trên trận địa (177). Tiến sĩ Hồ Bá Ôn vẫn tiếp tục dũng cảm chỉ huy quân binh chiến đấu đến cùng. Đến cuối giờ ngọ, tiến sĩ Hồ Bá Ôn lại bị trúng đạn. Ông băng bó lại vết thương, không nao núng, vẫn phản công cố đẩy lùi giặc Pháp (177).
Nhưng cánh quân thứ nhất của Pháp từ sáng sớm đến xế trưa tấn công vào thành, đến lúc này đã hạ được thành. Quân ta trong thành cũng như ngoài thành đều vỡ tan. Thành Nam Định mất (177)!
Khi thành đã vỡ, quân sĩ đỡ Hồ Bá Ôn ra nơi trú tạm, lo chữa thuốc cho ông. Hồ Bá Ôn nói: “Đã không thể vì nước nhà bảo vệ được thành trì, nay thành mất thì mất theo, còn cầu gì nữa” (180) ! Một tháng sau, ông trút hơi thở cuối cùng, ở tuổi bốân mươi mốt.
Trong những người trung nghĩa, liệt sĩ đã hi sinh, có một sĩ nhân người Nam Định, con trai của án sát Lạng Sơn Nguyễn Mậu Kiến, tên là Nguyễn Bản. Nguyễn Bản đã quyên tiền giúp nhà nước, lại mộ dân quân vào thành cùng quân binh chính quy chống đánh giặc Pháp. Về sau, ông được triều đình phong sắc, thờ ở đền làng để đời đời tưởng niệm (181).
Bấy giờ, trước khi bọn Pháp đưa quân về Nam Định tấn công thành Nam, chúng đã tính liệu để lại ở Đồn thuỷ tại Hà Nội một số ít quân. Phó kinh lược sứ Bắc Kì Bùi Ân Niên và tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản đã cùng binh lính bí mật hành quân về Gia Lâm, Văn Giang, Đông Ngàn, gần sát Đồn thuỷ. Hai vị quan ấy đã dâng sớ xin tập kích vào Đồn thuỷ (177), một mặt triệt hạ đồn này, một mặt để quân của chúng tại Nam Định nao núng khi hay tin hậu cứ đã bị san phẳng. Sau đó, theo kế hoạch, quân Bùi Ân Niên và Trương Quang Đản sẽ lập tức tiến về thành Nam ứng cứu (177).
Kế hoạch phòng thủ, phản công, quyết tấn công để phòng thủ đã được vạch ra nhiều tháng, nhưng tiếc thay, bởi Nguyễn Chính chứ không ai khác, lại làm lỡ sự cơ, khiến thành Nam Định bị hạ quá sớm, ngoài dự kiến. Do đó, quân Bùi Ân Niên và Trương Quang Đản chưa kịp tấn công hậu cứ Đồn thuỷ, thì họ chợt biết được tin bọn Pháp sẽ đánh Bắc Ninh và đồng thời, tin thành Nam Định thất thủ đã đến (177).
Tin thành Nam Định thất thủ bay về kinh đô Huế, khiến triều đình và vua Tự Đức bàng hoàng. Đúng là bàng hoàng! Bàng hoàng hơn cả tin Hà Nội thất thủ, bởi lẽ, chính vua Tự Đức đã nhận định: “Nước [Pháp] ấy mưu tính hạt Nam Định, bọn ngươi biết tình hình ấy đã lâu, phải tính toán phòng bị, lại đã cho kinh lược Nguyễn Chính đem quân đến đóng để cùng nhau giữ, thì mưu kế đã sẵn, người lại nhiều, không hấp tấp, đơn hư như Hà Thành! Bọn ngươi chịu trách nhiệm uỷ thác mà như thế…” (177) ! Và về tỉnh Bắc Ninh, nhà vua biết chúng sẽ thừa cơ tấn công, nên bảo: “Sự thế tỉnh Nam so với trước đã khác, [và] cứ theo Hà Nội báo rằng: Quân Pháp hiện đến tỉnh ngươi [Trương Quang Đản] mưu tính quấy rối. Tỉnh ngươi tướng biền, binh dõng đã họp đông, nếu chúng dám phạm đến, phải dập tắt ngay, chớ để chúng đắc chí, và [hãy] tư bàn với thống đốc Hoàng Tá Viêm góp sức làm [:đánh] ngay cho nhanh” (177).
Hoá ra, kế hoạch tập kích hậu cứ Đồn thuỷ của giặc Pháp khi chúng đưa phần lớn quân về tấn công Nam Định của Bùi Ân Niên, Trương Quang Đản, đã bị chúng dự liệu, và chúng chỉ đợi khi quân ta ở Bắc Ninh tiến hành theo kế hoạch, chúng sẽ đánh vào ngay chính thành luỹ Bắc Ninh!
Không thể không thấy sự phẫn nộ của quan quân lẫn nhân dân kinh đô và Quảng Trị, hai nơi nguyên là kinh sư, vốn nhạy cảm tình hình nhất (182)! Sự phẫn nộ ấy đã dâng cao khi nghe tin Nam Định thất thủ. Thế là đã rõ! Một số người đến lúc này mới buột miệng, “Bắc Kì, tưởng chừng lặp lại”, hoá ra không lặp lại, mà thật sự bọn Pháp lần này quyết tâm phục hận, mối hận chín năm về trước.
Trước sự phẫn nộ ấy, tháng hai nguyệt lịch, tên khâm sứ Rheinart vừa hoảng hốt, lo lắng đến một cuộc tấn công phục hận do quân dân tự phát, vào ngay chính Sứ quán bên bờ sông Hương. Nhưng y vẫn cố giữ vẻ trịch thượng, phách lối, đổ ngược tội cho triều đình. Y ngược ngạo nói rằng, chính triều đình đã tăng cường phòng thủ, lại liên minh với Trung Hoa, mới xảy ra cơ sự ấy! Rheinart vừa lo sợ vừa nói ngược để tìm cách thoát thân. Lập tức, y cho hạ cờ ba màu xanh trắng đỏ, lá cờ mà bọn nịnh hót và tự nịnh hót gọi là Cờ Tam tài, của Nước Cộng hoà Pháp. Rheinart cho hạ quốc kì của nước y khỏi cột cờ trước Sứ quán để xuống tàu (183), giao lại chìa khoá Sứ quán cho Nha Thương bạc. Một vị quan cấp tư vụ của Nha Thương bạc không nhận. Y ném xuống đất một cách khinh mạn. Cuối cùng, Nha Thương bạc phải nén lòng nhờ giám mục Caspar giữ hộ y. Caspar lại vờ tránh né sự dính líu, nhưng cuối cùng Caspar cũng giao cho linh mục Renauld ở nhà thờ Kim Long, để cùng các quan Thương bạc bỏ chìa khoá vào thùng, niêm phong lại một cách lịch sự, cái lịch sự ngoại giao. Thùng ấy đặt trong Sứ quán. Cửa Sứ quan cũng được dán giấy niêm phong, cứ mỗi mười ngày, có người đến xem lại con niêm (184).
Rheinart vào Gia Định ngày 06.05.1883 (30 tháng ba, Quý mùi), trên chiếc tàu Patceval. Tên ranh ma ấy rời khỏi Huế để bảo toàn tính mạng, và để ở Bắc Kì, Henry Rivière tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược mà không sợ vướng bận gì (184)!
Ngay sau khi Rheinart đi khỏi kinh đô Huế, cũng vào tháng hai nguyệt lịch Quý mùi (1883), tàu thuỷ Pháp, một chiếc lớn, một chiếc nhỏ, chạy đến bờ phía nam cửa Lục Hải, tỉnh Quảng Yên. Quân Pháp lên núi làm nhà, dựng cờ tam sắc (185)! Quan tỉnh được lệnh thương thuyết cho tàu ấy rút quân, nhưng vô ích! Đó là vài ngày sau khi bọn Pháp dưới quyền chỉ huy của Henry Rivière đã chiếm đồi Bãi Cháy ở vịnh Hòn Gay (Hồng Gai) (186). Việc xâm chiếm Hòn Gay và cửa Lục Hải, đều do sự tham mưu của hai tên thực dân, khâm sứ Rheinart và kĩ sư Turc (186), không chỉ lợi về khoáng sản là than mỏ, mà còn chiếm lợi thế về quân sự.
“Không bao giờ, không đời nào mà người ta vui lòng cho chúng ta một việc gì. Vậy muốn được cái gì thì chúng ta hãy chiếm lấy, bắt buộc họ phải theo ý chí của ta” (187) .
Đó là hai câu trong văn thư Rheinart viết ngày 09.02.1883 (mùng hai Tết, tháng giêng, Quý mùi) gửi Henry Rivière, tên nhà văn thực dân, có tham vọng phấn đấu “vào Viện Hàn lâm Văn chương Pháp bằng con đường Bắc Kì” (!). “Con đường Bắc Kì” là con đường lập chiến công xâm lược, cướp bóc trắng trợn!
Thế là với tham vọng của chính phủ thực dân tại Pháp và trực tiếp là tham vọng phấn đấu kì quặc, phi văn hoá của Henry Rivière, (ở thời đoạn Viện Hàn lâm Văn chương Pháp vốn có tinh thần nhân bản, nhân văn nhất định, đã bị lũng đoạn hoặc tự đồng loã với chủ nghĩa thực dân), không những Hà Nội thất thủ, Nam Định cũng thất thủ và Hòn Gay, cửa Lục Hải bị chiếm đóng!
Tháng hai nguyệt lịch Quý mùi (1883), năm Tự Đức thứ ba mươi sáu đau thương đến thế!

Hết tệp 4 truyện kí 9

Viết đến dòng chữ này vào lúc 16 giờ 26 phút,
ngày 29.12.2002 (26.11 Nh. ngọ, HB.2),
tại thành phố Hồ Chí Minh
.

TRẦN XUÂN AN


(133) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 130, 138 – 139.

(134) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 133.

(135) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 140.

(136) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 140.

(137) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 140.

(138) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 146.

(139) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 146.

(140) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 141.

(141) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 144.

(142) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 147.

(143) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 150.

(144) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 149.

(145) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 148.

(146) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 155. Về địa giới giữa Nam Kì thuộc Pháp và Đại Nam (Trung – Bắc Kì), Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC.), do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, bản dịch Phạm Trọng Điềm, hiệu đính: Đào Duy Anh, tập 3, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 137, ghi rõ: “Núi Thần Mẫu: ở phía tây huyện Tuy Lí; là chỗ phân giới giữa tỉnh Bình Thuận và tỉnh Biên Hòa, phía tây nam là động cát, phía đông bắc là rừng rậm”. Ở sđd., tr. 128: “phía tây đến địa giới huyện Phúc Bình [:Phước Bình], tỉnh Biên Hòa”. Núi Thần Mẫu còn gọi là núi Thần Quy. Huyện Tuy Lí đến đời Thành Thái còn được gộp với một vùng đất khác để thành huyện Tánh Linh. Tỉnh Biên Hòa dưới triều Nguyễn bao gồm cả tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và tỉnh Đồng Nai. Núi Thần Mẫu hay còn gọi là núi Thần Quy là một vết thương chia cắt Đất nước [1862 – 1885…] (như ranh giới Nam – Bắc triều [Trịnh – Mạc, 1527 – 1592, tại Thanh Hóa – Sơn Nam], sông Gianh [Trịnh – Nguyễn, 1592 – 1786, tại Hà Tĩnh – Quảng Bình], sông Bến Hải, sông Thạch Hãn [1954 – 1975 tại Quảng Trị]…). Các nơi ấy rất cần được dựng bia để ghi nhớ những nỗi đau lịch sử.

(147) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 157 – 158.

(148) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 150.

(149) TVTĐ., tập 2, Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1996, tr. 230.

(150) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 298 – 299: Lưu trữ AOM. Aix, Amiraux 12956, Rheinart gửi thống đốc Nam Kì, Huế ngày 02.08.1882 (19.06 Nhâm ngọ).

(151) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 89 – 91.

(152) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 299: Lưu trữ AOM. Aix, Amiraux 12962, ngày 24.11.1882 (14.10 Nhâm ngọ).

(153) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 299 – 300: Lưu trữ AOM. Aix, Amiraux 12961, Rheinart gửi thống đốc Nam Kì, Huế, ngày 19.09.1882 (05.08 Nhâm ngọ).

(154) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 269: Lưu trữ AOM. Aix, Amiraux 12940, Rheinart gửi thống đốc Nam Kì, Huế, ngày 30.11.1881 (09.10 Tân tị, Tự Đức 34), xem thêm G. Taboulet…

(155) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 161 – 162.

(156) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 163 – 164.

(157) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 164.

(158) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 165 – 166, 170.

(159) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 165.

(160) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 167.

(161) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 172.

(162) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 163, 170, 174.

(163) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 171.

(164) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 145.

(165) NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 271.

(166) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 171 – 172.

(167) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 172 – 173.

(168) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 173 – 174.

(169) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 173 – 174.

(170) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 174.

(171) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 175.

(172) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 174.

(173) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 175.

(174) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 175.

(175) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 175 – 176.

(176) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 168.

(177) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 176 – 177.

(178) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 159 – 160.

(179) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 178.

(180) ĐNLT., tập 4, Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1993, tr. 372.

(181) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 184 – 185.

(182) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 183.

(183) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 177.

(184) Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn (CTN.), Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 82 – 83.

(185) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 177.

(186) CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 394 – 396.

(187) Dẫn theo: CXL., Nxb. Tp. HCM. tái bản, sđd., 2001, tr. 395.


Chú thích xong lúc 08 giờ ngày 14.02.2002
(13.01 Quý mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.2])
.

TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 4
(phân đoạn 4, truyện kí 9)

Xin xem tiếp tệp 5
(phân đoạn 5, truyện kí 9)
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.